IMAGE: Áp xe vú trên siêu âm

 

A. Nang thông thường: Thành mỏng, sóng âm đi qua
B. Nang nhiễm trùng: thành dày, lớp dịch dày/mỏng bên trong
C. Nang sữa: hình ảnh kính mờ
D. Áp xe mạn tính: thành giả không đều, hồi âm bên trong lợn cợn do mủ hoặc mảnh vụn

Nang vú (Breast cysts)

Nang vú là nguyên nhân phổ biến nhất của khối ở vú ở phụ nữ trong độ tuổi 35 đến 50. Một nang xuất hiện khi chất dịch tích tụ do sự tắc nghẽn ống tận tiểu thùy, hoặc do xơ hóa hoặc do tăng sinh biểu mô nội ống. Một nang nhìn thấy trên siêu âm là một cấu trúc xác định rõ, hình tròn hoặc bầu dục, trống âm với thành mỏng (hình 2A). Chúng có thể đơn giản hoặc phức tạp (hình 2B).

Áp xe mạn tính ở vú (Chronic abscess of the breast)

Bệnh nhân có thể biểu hiện sốt, đau, đau khi sờ chạm và tăng bạch cầu. Áp xe thường nằm ở vùng trung tâm hoặc dưới quầng vú. Áp xe có thể biểu hiện một cấu trúc xác định rõ hoặc không rõ ràng. Nó có thể trống âm hoặc hồi âm dạng kính mờ bên trong hoặc tăng âm phía sau (hình 2D).


Bệnh lý vú xơ nang  (Fibrocystic breast condition) (Thay đổi sợi bọc tuyến vú)

Bệnh lý này được gọi nhiều tên khác nhau : bệnh lý u xơ, thay đổi u xơ, bệnh u nang, viêm vú mạn tính hoặc loạn sản tuyến vú. Đặc điểm siêu âm vú trong bệnh lý này rất khác nhau vì nó phụ thuộc vào giai đoạn và mức độ thay đổi hình thái. Ở giai đoạn đầu, đặc điểm siêu âm có thể bình thường mặc dù các khối u có thể sờ thấy khi khám lâm sàng. Có thể có các vùng dày lên khu trú của nhu mô, có hoặc không có tăng độ hồi âm khu trú (hình 3A). Các nang đơn lẻ hoặc chùm nang nhỏ có thể được nhìn thấy trong một số hình 3B và 3C. Thay đổi xơ nang khu trú có thể biểu hiện dưới dạng khối đặc hoặc u nang có thành mỏng. Khoảng một nửa trong các khối đặc này thường được phân loại là không xác định và cuối cùng sẽ được sinh thiết.

U xơ tuyến vú là một dạng u vú lành tính thường gặp của tuyến vú. Khối u tròn, nhẵn, di động dễ dàng trong mô vú, thường nằm gần núm vú nhưng cũng có thể xuất hiện ở nhiều vị trí khác trên vú. Người phụ nữ bị u xơ tuyến vú thường cảm thấy đau, rát, sưng và nhạy cảm ở vùng ngực. Các triệu chứng này tăng lên trong thời kỳ kinh nguyệt và giảm dần khi càng xa ngày kinh nguyệt. Người bệnh chỉ tình cờ phát hiện khi sờ vào ngực thấy một khối u không đau, không ảnh hưởng đến các hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Bệnh xảy ra nhiều hơn ở những phụ nữ trẻ, dưới 50 tuổi.

U nhú tuyến vú 

U nhú tuyến vú là một khối u vú nằm trong tổ chức biểu mô tuyến vú. U được hình thành từ các tế bào biểu mô lát trong lòng ống tuyến sữa chính. Người bệnh có biểu hiện chảy dịch một bên vú khi sờ vào, dịch không màu, có máu hoặc màu xanh nâu. Người bệnh phải làm xét nghiệm thường xuyên để chẩn đoán phân biệt với ung thư tuyến vú.

Các xét nghiệm để chẩn đoán và tiên lượng u nhú tuyến vú bao gồm xét nghiệm dịch núm vú và chụp vú. Sau khi chẩn đoán bệnh, phương pháp điều trị được chỉ định là cắt bỏ khối u.

Giãn ống dẫn sữa (Duct ectasia)

Giãn ống tuyến sữa là một bệnh xảy ra ở ống tuyến sữa chính của tuyến vú. Bệnh xảy ra chủ yếu ở những phụ nữ sinh nhiều con và có thời gian nuôi con dài. Theo đó, sau nhiều năm cho con bú, các ống tuyến sữa chính sẽ bị giãn ra, chứa đầy dịch sữa, các chất dịch này đặc lại, xuất hiện phản ứng viêm xung quanh các ống tuyến sữa bị giãn.

Người bệnh thường có triệu chứng chảy dịch núm vú màu trắng hoặc ngả vàng. Sờ vào vú thấy có đám cứng tạo thành các dây ngay dưới quầng vú, tỏa ra phía ngoài một vài centimet.

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh là siêu âm tuyến vú thấy các ống sữa giãn và chọc hút sinh thiết tuyến vú thấy có dịch sữa. Ở mức độ nhẹ, người bệnh được chỉ định chiếu tia hồng ngoại, chườm nóng, kết hợp nặn hút sữa mỗi ngày 1 - 2 lần. Nếu có nhiễm khuẩn tái phát nhiều lần, thì có thể chỉ định mổ cắt hệ thống ống tuyến sữa chính bị giãn.

Tổn thương này có đặc điểm thay đổi. Thông thường, các ống dẫn sữa có thể biểu hiện dưới dạng một cấu trúc hình ống đơn chứa đầy dịch hoặc đôi khi có thể biểu hiện nhiều cấu trúc như vậy. Các mảnh vỡ tế bào cũ có thể biểu hiện dưới dạng có hồi âm bên trong. Nếu các mảnh vỡ lấp đầy lòng, đôi khi nó có thể bị nhầm lẫn với một khối đặc,trừ khi hình dạng ống được nhìn thấy (hình 4)

Nang sữa đóng kén

Nang sữa đóng kén cũng là bệnh lý xảy ra ở ống tuyến sữa chính của tuyến vú. Bệnh gặp nhiều ở phụ nữ đang trong độ tuổi cho con bú. Bệnh xảy ra do một vài ống tuyến sữa chính bị tắc làm giãn và tắc thành ống, hình thành quá trình viêm và xơ hóa các tổ chức quanh vùng tổn thương. Các nang có kích thước to nhỏ khác nhau, bên trong chứa đầy dịch sữa đặc.

Bệnh xuất hiện với triệu chứng sờ vú thấy có một khối nổi lên, di động, không đau, có kích thước to nhỏ khác nhau. Khi bóp thấy có dịch sữa chảy ra ở đầu núm vú.Dể gây áp xe vú

Bệnh được chẩn đoán bằng siêu âm thấy có nang tuyến vú và chọc hút sinh thiết tuyến vú thấy có dịch sữa. Đầu tiên, người bệnh được điều trị bằng chọc hút điều trị nang sữa đóng kén. Nếu sau chọc hút có thấy nang tái phát trong vòng 2 tháng thì phải chỉ định mổ cắt bỏ nang.

 U xơ tuyến (Fibroadenoma) (Bướu sợi tuyến)

U xơ tuyến là một khối u do estrogen gây ra ở người <35 tuổi, thường nằm ở vị trí tiếp nối giữa lớp mỡ dưới da và mô tuyến vú. Đây là tổn thương vú phổ biến thứ ba sau bệnh xơ nang và ung thư biểu mô. Nó thường biểu hiện như một khối chắc, mịn, hình bầu dục, dễ di động. Nó hiếm khi gây đau hoặc đau khi sờ chạm. Kích thước thường dưới 5cm, mặc dù các u xơ lớn hơn có thể được biết đến. U xơ tuyến là đa ổ trong 10-20% và có ở 2 vú trong 4% trường hợp. Vôi hóa có thể xuất hiện. Trên siêu âm, nó biểu hiện dưới dạng tổn thương xác định rõ (hình 5). Vỏ bao thường có thể được xác định.  Cấu trúc âm bên trong thường là đồng nhất và giảm âm so với nhu mô vú và có thể có hồi âm dạng kính mờ bên trong. Thông thường, đường kính ngang lớn hơn đường kính trước sau (hình 5). Ở một số ít bệnh nhân, khối u có thể biểu hiện phức tạp, tăng âm hoặc đồng âm. Các đặc điểm siêu âm tương tự có thể được thấy trong ung thư biểu mô dạng nhú, tủy hoặc nhầy.


Bướu diệp thể (Cystosarcoma phyllodes = Phyllodes Tumor)

Đây là tổn thương lớn xuất hiện ở phụ nữ lớn tuổi. Một số tác giả coi nó là một khối u xơ tuyến khổng lồ. Khối u có thể chiếm toàn bộ tuyến vú. Nó thường biểu hiện đường bờ rõ và cấu trúc hồi âm không đồng nhất, đôi khi có các nang bên trong do thoái hóa. Tỷ lệ biến đổi thành ác tính là thấp (hình 6B).


Bướu mỡ (Lipoma)

Bướu mỡ là một khối u phát triển chậm, được xác định rõ. Nó có thể được phát hiện tình cờ hoặc bệnh nhân có thể than phiền về việc tăng kích thước của vú mặc dù không sờ thấy khối nào trên lâm sàng. Khối u mềm và có thể bị biến dạng khi đè ép đầu dò. Vỏ bao mỏng thường có thể được xác định và khối u thường biểu hiện cấu trúc hồi âm giống mô mỡ.

Nhận xét