Chapter 9. Neck
(Atlas of Ultrasound in Ob and Gyn)
1. Thickened Nuchal Fold (16–20 Weeks Gestation)
DESCRIPTION AND CLINICAL FEATURESNeonates with trisomy 21 (Down syndrome) often have thickening of the soft tissues in the posterior neck. This has a prenatal analog, because thickening of these soft tissues (the nuchal fold) at approximately 16–20 weeks gestation has been found to be associated with trisomy 21. Forty to 50% of second trimester fetuses with trisomy 21 have a nuchal fold of ≥6 mm. When a thickened nuchal fold is found in a 16–20-week fetus, the parents should be counseled about the risk of aneuploidy.
SONOGRAPHY
The nuchal fold should be routinely measured on sonograms performed between 16 and 20 weeks gestation. The measurement is obtained on a transverse view of the fetal head in a plane that is close to axial but angled slightly coronal to include the cerebellum and occipital bone. The nuchal fold is measured from the external surface of the occipital bone to the outer skin surface. A nuchal fold measurement of 6 mm or larger is abnormal (Figure 9.1.1) and should prompt a careful sonographic search for other anomalies, especially those associated with trisomy 21.
Dày Nuchal Fold (Cử chỉ 16–20 tuần)
MÔ TẢ VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Trẻ sơ sinh bị tam nhiễm sắc thể 21 (hội chứng Down) thường có mô mềm ở sau cổ dày lên. Điều này có tính chất tương tự trước khi sinh, bởi vì sự dày lên của các mô mềm này (nếp gấp nếp gấp) ở tuổi thai khoảng 16–20 tuần đã được phát hiện có liên quan đến thể tam nhiễm 21. Bốn mươi đến 50% thai nhi trong tam cá nguyệt thứ hai với thể tam nhiễm 21 có nếp gấp ≥6 mm. Khi phát hiện thấy nếp gấp nuchal dày lên ở thai nhi 16–20 tuần, cha mẹ nên được tư vấn về nguy cơ dị bội.
HÌNH ẢNH
Nuchal nếp gấp nên được đo thường xuyên trên siêu âm được thực hiện từ 16 đến 20 tuần tuổi thai. Phép đo thu được khi nhìn ngang đầu thai nhi trong một mặt phẳng gần với trục nhưng hơi có góc nghiêng để bao gồm tiểu não và xương chẩm. Nuchal nếp gấp được đo từ bề mặt bên ngoài của xương chẩm đến bề mặt da bên ngoài. Số đo nếp gấp nuchal 6 mm hoặc lớn hơn là bất thường (Hình 9.1.1) và cần phải tiến hành khám siêu âm cẩn thận để tìm các dị thường khác, đặc biệt là những dị thường liên quan đến thể tam nhiễm 21.
HÌNH 9.1.1 Nuchal nếp gấp. Góc nhìn trục qua đầu thai nhi, được chụp trong một mặt phẳng bao gồm
tiểu não (đầu mũi tên) và xương chẩm, chứng tỏ một nếp gấp nếp nhăn (calipers) dày lên bất thường,
đo độ dày 9,1 mm.
DESCRIPTION AND CLINICAL FEATURES
A cystic hygroma is a uni- or multilocular subcutaneous mass filled with lymphatic fluid. It most commonly occurs in the posterior neck, although it can be seen elsewhere in the body. A cystic hygroma results from a localized area of lymphatic dysplasia, with dilation of, or leakage from, lymphatic vessels. Sometimes, the subcutaneous lymphatic dysplasia is widespread, with fluid collections or subcutaneous edema encompassing the entire fetal body (generalized cystic hygroma or lymphangiectasia). Even when generalized, the largest fluid collections are typically in the posterior neck.
Cystic Hygroma và Lymphangiectasia
MÔ TẢ VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Hygroma dạng nang là một khối dưới da đơn hoặc nhiều lớp chứa đầy dịch bạch huyết. Nó thường xảy ra nhất ở sau cổ, mặc dù nó có thể được nhìn thấy ở những nơi khác trên cơ thể. Tăng sắc tố dạng nang là kết quả của một khu vực cục bộ của chứng loạn sản bạch huyết, với sự giãn nở hoặc rò rỉ từ các mạch bạch huyết. Đôi khi, loạn sản bạch huyết dưới da lan rộng, với các tụ dịch hoặc phù nề dưới da bao phủ toàn bộ cơ thể thai nhi (chứng u nang toàn thân hoặc chứng tăng tiết bạch huyết). Ngay cả khi toàn thân, lượng chất lỏng lớn nhất thường nằm ở cổ sau.
Fetuses with Turner syndrome (45,X karyotype), trisomy 21 (Down syndrome), trisomy 13, and trisomy 18 have elevated incidence of cystic hygromas and generalized lymphangiectasia, particularly during the latter part of the first trimester and the beginning of the second trimester. In view of this, the sonographic finding of cystic hygroma should prompt genetic counseling. Regardless of the fetal karyotype, fetuses with severe generalized cystic hygroma have high mortality rates. While the cystic hygroma that occurs at the back of the neck is highly associated with aneuploidy, isolated cystic hygroma or lymphangioma occurring elsewhere in the soft tissues of the body is less often related to
aneuploidy.
aneuploidy.
Thai nhi mắc hội chứng Turner (45, karyotype X), thể tam nhiễm 21 (hội chứng Down), thể tam nhiễm 13 và tam nhiễm sắc thể 18 có tần suất cao mắc chứng u nang và u bạch huyết tổng quát, đặc biệt là trong phần sau của tam cá nguyệt thứ nhất và đầu của tam cá nguyệt thứ hai. . Theo quan điểm của điều này, việc phát hiện siêu âm về u nang cần tư vấn di truyền ngay lập tức. Bất kể karyotype của thai nhi là gì, những thai nhi bị u nang bì nặng có tỷ lệ tử vong cao. Trong khi hygroma dạng nang xuất hiện ở sau cổ có liên quan nhiều đến thể dị bội, thì u nang dạng nang cô lập hoặc u bạch huyết xảy ra ở những nơi khác trong mô mềm của cơ thể ít liên quan đến
thể dị bội.
SONOGRAPHYA cystic hygroma appears sonographically as a cystic mass in the subcutaneous tissues, generally in the posterior neck, often with septations (Figures 9.2.1 and 9.2.2). Cystic hygromas can also occur elsewhere in the body (Figure 9.2.3). Large focal cystic hygromas are sometimes called lymphangiomas (Figure 9.2.4). With generalized cystic hygroma or lymphangiectasia, the entire fetus is surrounded by a hypoechoic halo, representing subcutaneous edema (Figures 9.2.5 and 9.2.6). There may be well-defined cystic spaces interspersed within the diffuse edema. In some cases, ascites, pleural effusions, or pericardial effusions may also be present (termed “hydrops” if at least two abnormal fluid collections are present).
U nang bì xuất hiện về mặt siêu âm như một khối u nang ở các mô dưới da, nói chung là ở cổ sau, thường có các vách ngăn (Hình 9.2.1 và 9.2.2). U nang cũng có thể xảy ra ở những nơi khác trong cơ thể (Hình 9.2.3). Các u nang khu trú lớn đôi khi được gọi là u bạch huyết (Hình 9.2.4). Với chứng hygroma dạng nang hay bệnh bạch huyết toàn thân, toàn bộ thai nhi được bao quanh bởi một quầng giảm âm, biểu hiện phù nề dưới da (Hình 9.2.5 và 9.2.6). Có thể có các khoảng nang được xác định rõ xen kẽ trong phù lan tỏa. Trong một số trường hợp, cổ trướng, tràn dịch màng phổi hoặc tràn dịch màng ngoài tim cũng có thể xuất hiện (được gọi là “tràn dịch màng phổi” nếu có ít nhất hai tụ dịch bất thường).
3. MassesDESCRIPTION AND CLINICAL FEATURES
Tumors of the fetal neck are most often teratomas, which derive from germ cells and are composed of multiple tissue types. These benign tumors may arise in the mediastinum and grow up into the neck or arise primarily in the neck or mouth. The prognosis is related to the size of the tumor, the degree of vascularity, and the extent of tumor invasion into, or compression of the surrounding structures. These tumors tend to grow rapidly during gestation. If they are hypervascular, they can cause high-output congestive heart failure and hydrops in the fetus. Sometimes, a hemangioma in the subcutaneous tissues of the neck can be large enough to appear as a neck mass.
SONOGRAPHY
A teratoma appears as a complex mass in the neck. The mass is typically predominantly solid with some small cystic areas (Figures 9.3.1 and 9.3.2). Color Doppler can be used to assess vascularity. Careful evaluation of the mass is important to look for extension into the cranium or into the mediastinum. Once a neck mass is identified prenatally, serial ultrasounds are used to monitor growth of the tumor and to look for signs of fetal hydrops. A hemangioma may appear as a homogenously echogenic mass arising in the subcutaneous tissues of the neck (Figure 9.3.3). Occasionally, small calcifications will be seen in the mass. As with teratomas, vascularity of hemangiomas can be
assessed with color Doppler.
HÌNH 9.2.1 U nang sau cổ có vách ngăn ở tuổi thai 12 tuần. A: Hình ảnh Sagittal của
thai nhi cho thấy sự giãn nở rõ rệt của các mô sau cổ với chất lỏng (thước kẹp, 0,95 cm). B: Ngang
hình ảnh cổ cho thấy một u nang bì xuất hiện như một khối u nang dưới da (các mũi tên) có chứa
vách ngăn (đầu mũi tên).
HÌNH 9.2.2 Dị dạng nang sau cổ có vách ngăn ở tuổi thai 16 tuần. A: Hình chiếu trục góc
qua cổ sau cho thấy độ dày bất thường của nếp gấp nuchal (thước cặp, 0,73 cm). B: Hình ảnh kém hơn
đến mức của nếp gấp da đầu cho thấy các vách ngăn (đầu mũi tên) trong hygroma nang ở cổ sau.
HÌNH 9.2.4 Khối u lớn dạng nang trước cổ, còn được gọi là u bạch huyết. (A) Sagittal và (B) axial
hình ảnh trước cổ thai nhi cho thấy một khối nang lớn có vách ngăn (các mũi tên). C: Thu nhận 3D với màu sắc Doppler hiển thị dòng chảy (mũi tên) trong các vách ngăn của khối trước cổ. D: Chế độ xem 3D của khuôn mặt và cổ của thai nhi thể hiện khối lượng khổng lồ (mũi tên) liên quan đến cổ, cằm và má của thai nhi.
HÌNH 9.2.5 U nang bì tổng quát ở tuổi thai 12 tuần. A: Hình ảnh trục của cổ cho thấy lớn
hygroma nang sau (mũi tên) với các vách ngăn. Phù nề dưới da có thể nhìn thấy kéo dài xung quanh đầu bên và phía trước (đầu mũi tên). B: Hình ảnh kết xuất bề mặt 3D của thai nhi cho thấy u nang lớn
bọc đầu và cổ. Vết phù cũng kéo dài vào thân cây.
HÌNH 9.2.6 Tăng sinh nang đại thể ở tuổi thai 14 tuần với hội chứng Turner. A: Góc trục
hình ảnh sau cổ cho thấy hygroma nang vách ngăn lớn (mũi tên). B: Hình ảnh cắt ngang của bụng thai nhi lúc mức độ của dạ dày (S) cho thấy phù nề dưới da (các mũi tên) bao quanh bụng.
Tumors of the fetal neck are most often teratomas, which derive from germ cells and are composed of multiple tissue types. These benign tumors may arise in the mediastinum and grow up into the neck or arise primarily in the neck or mouth. The prognosis is related to the size of the tumor, the degree of vascularity, and the extent of tumor invasion into, or compression of the surrounding structures. These tumors tend to grow rapidly during gestation. If they are hypervascular, they can cause high-output congestive heart failure and hydrops in the fetus. Sometimes, a hemangioma in the subcutaneous tissues of the neck can be large enough to appear as a neck mass.
SONOGRAPHY
A teratoma appears as a complex mass in the neck. The mass is typically predominantly solid with some small cystic areas (Figures 9.3.1 and 9.3.2). Color Doppler can be used to assess vascularity. Careful evaluation of the mass is important to look for extension into the cranium or into the mediastinum. Once a neck mass is identified prenatally, serial ultrasounds are used to monitor growth of the tumor and to look for signs of fetal hydrops. A hemangioma may appear as a homogenously echogenic mass arising in the subcutaneous tissues of the neck (Figure 9.3.3). Occasionally, small calcifications will be seen in the mass. As with teratomas, vascularity of hemangiomas can be
assessed with color Doppler.
Quần chúng
MÔ TẢ VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Các khối u ở cổ thai nhi thường là u quái, có nguồn gốc từ tế bào mầm và được cấu tạo bởi nhiều loại mô. Những khối u lành tính này có thể phát sinh trong trung thất và phát triển lên cổ hoặc phát sinh chủ yếu ở cổ hoặc miệng. Tiên lượng liên quan đến kích thước của khối u, mức độ mạch máu và mức độ xâm lấn của khối u vào hoặc chèn ép các cấu trúc xung quanh. Những khối u này có xu hướng phát triển nhanh chóng trong thời kỳ mang thai. Nếu chúng bị tăng huyết áp, chúng có thể gây ra suy tim sung huyết đầu ra và hydrops ở thai nhi. Đôi khi, u máu trong mô dưới da của cổ có thể đủ lớn để xuất hiện như một khối u ở cổ.
HÌNH ẢNH
U quái xuất hiện dưới dạng một khối phức tạp ở cổ. Khối lượng thường chủ yếu là rắn với một số vùng nhỏ dạng nang (Hình 9.3.1 và 9.3.2). Doppler màu có thể được sử dụng để đánh giá tình trạng mạch máu. Đánh giá cẩn thận khối lượng là điều quan trọng để tìm kiếm sự mở rộng vào sọ hoặc vào trung thất. Khi khối u ở cổ được xác định trước khi giải phẫu, siêu âm nối tiếp được sử dụng để theo dõi sự phát triển của khối u và tìm kiếm các dấu hiệu của thai nhi. U máu có thể xuất hiện dưới dạng một khối hồi âm đồng nhất phát sinh trong các mô dưới da của cổ (Hình 9.3.3). Thỉnh thoảng sẽ thấy những nốt vôi hóa nhỏ thành khối. Đối với u quái, mạch máu của u mạch máu có thể
đánh giá bằng Doppler màu.
HÌNH 9.3.1 U quái lớn liên quan đến cổ. A: Hình ảnh cắt ngang của đầu thai nhi cho thấy lớn
chủ yếu là khối rắn (mũi tên) mọc ra khỏi cổ. B: Chế độ xem Sagittal của thai nhi hiển thị khối lượng (mũi tên) gây ra chứng tăng áp của cổ, phát triển vượt trội về phía miệng và thấp hơn về phía trung thất.
C: Chế độ xem Sagittal thể hiện khối lượng hồi âm lớn (thước cặp) kéo dài vượt trội từ cổ vào đế
của miệng (mũi tên ngắn), và vào trung thất tiếp giáp với động mạch phổi (mũi tên dài).
HÌNH 9.3.2 U quái cổ nhỏ. A: Hình ảnh cổ Sagittal ở thai nhi 34 tuần cho thấy tình trạng hạ huyết áp rõ rệt (đầu mũi tên) do một khối đặc (mũi tên) nằm ở cổ trước. Trái tim (H) hiện rõ trong lồng ngực
thua kém so với đại chúng. B: Hình ảnh 3D của cổ cho thấy khối (mũi tên) ở cổ.
HÌNH 9.3.3 U máu vùng cổ. A: Siêu âm cắt ngang của mặt dưới và cổ của thai nhi cho thấy
khối lượng hồi âm đồng nhất (mũi tên) với một vài nốt vôi hóa (đầu mũi tên). B: Doppler màu
hình ảnh khối (các mũi tên) cho thấy lưu lượng máu bên trong và ở ngoại vi của u mạch máu. C: Doppler màu hình ảnh khối lượng (mũi tên) cho thấy bình nuôi lớn (đầu mũi tên) từ cổ vào nó.
DESCRIPTION AND CLINICAL FEATURES
Enlargement of the thyroid gland is termed a goiter. Goiters can occasionally arise in the fetus as a result of maternal thyroid conditions or fetal genetic defects that interfere with the ability to produce thyroid hormone. The lack of thyroid hormone in the fetal blood causes increased fetal production of thyroid-stimulating hormone (TSH), which in turn stimulates the thyroid gland to grow. Some forms of hypothyroidism and hyperthyroidism in the mother are caused by maternal antibodies. These antibodies
can cross the placenta and affect the fetal thyroid in ways that lead to fetal thyroid enlargement. Likewise, some medications used to treat hyperthyroidism in the mother can cross the placenta and stimulate enlargement of the thyroid in the fetus. Enlargement of the thyroid gland can cause tracheal obstruction, putting the fetus at risk for perinatal morbidity and mortality. If the goiter is diagnosed prenatally, treatment can be instituted to decrease the size of the gland, reducing the risk of tracheal obstruction. If treatment is not accomplished before birth, interventions to establish an airway at birth may be required.
4. Bướu cổ
MÔ TẢ VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Sự mở rộng của tuyến giáp được gọi là bướu cổ. Bệnh bướu cổ đôi khi có thể phát sinh ở thai nhi do tình trạng tuyến giáp của mẹ hoặc dị tật di truyền của thai nhi cản trở khả năng sản xuất hormone tuyến giáp. Sự thiếu hụt hormone tuyến giáp trong máu thai nhi khiến thai nhi tăng sản xuất hormone kích thích tuyến giáp (TSH), do đó kích thích tuyến giáp phát triển. Một số dạng suy giáp và cường giáp ở mẹ là do kháng thể của mẹ. Những kháng thể này
có thể đi qua nhau thai và ảnh hưởng đến tuyến giáp của thai nhi theo những cách dẫn đến phì đại tuyến giáp của thai nhi. Tương tự như vậy, một số loại thuốc điều trị cường giáp ở người mẹ có thể đi qua nhau thai và kích thích tuyến giáp mở rộng ở thai nhi. Sự mở rộng của tuyến giáp có thể gây tắc nghẽn khí quản, khiến thai nhi có nguy cơ mắc bệnh chu sinh và tử vong. Nếu bướu cổ được chẩn đoán từ trước, có thể tiến hành điều trị để giảm kích thước của tuyến, giảm nguy cơ tắc nghẽn khí quản. Nếu việc điều trị không được hoàn thành trước khi sinh, có thể phải can thiệp để thiết lập đường thở khi sinh.
HÌNH 9.4.1 Bướu cổ ở thai nhi do mẹ dùng thuốc điều trị bệnh Graves. (A) Ngang và (B)
hình ảnh hậu môn của cổ cho thấy tuyến giáp phì đại (mũi tên) hai bên với cổ phình ra
trước và sau. Khí quản (đầu mũi tên) ở đường giữa bị nén bởi tuyến lớn. Tương ứng
(C) các đoạn video cắt ngang và (D) cho thấy các tuyến phì đại mở rộng cổ và gây ra
hẹp khí quản.
SONOGRAPHY
Fetal goiter is diagnosed when the thyroid gland, located in the anterior neck around the trachea anteriorly and laterally, is enlarged (Figure 9.4.1). The gland is typically homogeneous in echotexture and more echogenic than the other tissues in the neck. Enlargement of the gland causes the neck to bulge anteriorly and laterally. If the gland is enlarged because it is overstimulated, as with maternal Graves disease, the gland may also be hypervascular (Figure 9.4.2).
HÌNH ẢNH
Bướu cổ thai nhi được chẩn đoán khi tuyến giáp, nằm ở cổ trước xung quanh khí quản ở phía trước và bên, bị phì đại (Hình 9.4.1). Tuyến thường đồng nhất về chất phản âm và có nhiều âm vang hơn các mô khác ở cổ. Sự mở rộng của tuyến làm cho cổ phình ra phía trước và bên. Nếu tuyến to ra vì bị kích thích quá mức, như bệnh Graves ở mẹ, tuyến cũng có thể bị tăng huyết áp (Hình 9.4.2).
HÌNH 9.4.2 Bướu cổ thai nhi do bệnh Graves của mẹ không được điều trị, gây ra bệnh Graves ở thai nhi. A: Hình ảnh cắt ngang cổ cho thấy tuyến giáp phì đại (mũi tên) ở hai bên khí quản (đầu mũi tên). B: Hình ảnh Doppler màu thể hiện sự tăng lưu thông của tuyến giáp (các mũi tên), một phát hiện đôi khi được thấy với bệnh bướu cổ tử cung thứ phát sau bệnh Graves ở mẹ.
Nhận xét
Đăng nhận xét