Giải phẫu sinh dục nữ. Bài giảng Giải Phẫu Học Nguyễn Quang Quyền

 Giải phẫu sinh dục nữ 

BS. Nguyễn Hồng Anh

GPH Nguyễn Quang Quyền

Cơ quan sinh dục nữ gồm có: buồng trứng để sản sinh ra trứng, vòi trứng để dẫn trứng về buồng tử cung, tử cung nơi trứng làm tổ, âm đạo và bộ phận sinh dục ngoài để giao hợp và tống thai từ tử cung ra ngoài. Ngoài ra còn có vú là tuyến tiết ra sữa trong thời kỳ nuôi con.

I.                   Buồng trứng

Buồng trứng là một tuyến vừa ngoại tiết (tiết ra trứng) vừa nội tiết (tiết ra các nội tiết tố nữ quyết định giới tính sinh dục phụ). Có hai buồng trứng một bên phải và một bên trái nằm áp vào thành bên của chậu hông, sau dây chằng rộng, có màu hồng nhạt trên người sống và màu xám nhạt trên xác. Bề mặt buồng trứng thường nhẵn nhụi cho tới lúc dậy thì, sau đó càng ngày càng sần sùi vì hàng tháng một trứng tiết ra từ một nang trứng vào vòi tử cung làm rách vỏ buồng trứng và tạo thành những vết sẹo trên mặt buồng trứng.

Hình thể ngoài và liên quan:

Buồng trứng có hình một hạt đậu dẹt, kích thước khoảng 1 cm bề dày, 2 cm bề rộng và 3 cm bề cao.

Buồng trứng có hai mặt: mặt trong và mặt ngoài. Mặt trong lồi, tiếp xúc với các tua của phễu vòi tử cung và các quai ruột. Mặt ngoài nằm áp vào phúc mạc của thành bên chậu hông trong một hố lõm gọi là hố buồng trứng. Hố buồng trứng được giới hạn do các thành phần nằm ngoài phúc mạc đội lên. Phía trước dưới là dây chằng rộng, phía trên là động mạch chậu ngoài, phía sau là động mạch chậu trong và niệu quản. Ở đáy hố là động mạch rốn và mạch và thần kinh bịt. Ở người đẻ nhiều lần buồng trứng có thể sa xuống thấp hơn, nằm trong hố Claudius. Mặt ngoài buồng trứng có một vết lõm gọi là rốn buồng trứng là nơi mạch và thần kinh đi vào buồng trứng.

Buồng trứng có hai bờ:  bờ tự do và bờ mạc treo buồng trứng. Bờ tự do quay ra phía sau và liên quan với các quai ruột, còn bờ mặt treo thì có mạc treo, treo buồng trứng vào mặt sau của dây chằng rộng.

Buồng trứng có hai đầu: đầu vòi và đầu tử cung. Đầu vòi tròn, hướng lên trên và là nơi bám của dây chằng treo buồng trứng, còn đầu tử cung nhỏ hơn và quay xuống dưới hướng về phía tử cung, là nơi bám của dây chằng riêng buồng trứng.

Phương tiện giữa buồng trứng và các dây chằng buồng trứng

Buồng trứng được treo lơ lửng trong ổ phúc mạc nhờ một hệ thống dây chằng. Ngoài mạc treo buồng trứng còn có dây chằng treo buồng trứng và dây chằng riêng buồng trứng. Dây chằng treo buồng trứng bám từ đầu vòi của buồng trứng đi giữa hai lá dây chằng rộng tới thành chậu hông. Dây chằng này được cấu tạo chủ yếu bởi thần kinh và mạch buồng trứng đi vào hoặc là ra khỏi buồng trứng. Dây chằng này có thể lan lên phía trên ở vùng thắt lưng và đội phúc mạc lên thành một nếp. Dây chằng riêng buồng trứng cũng là một dải mô liên kết nằm giữa hai lá dây chằng rộng, bám từ đầu tử cung của buồng trứng tới góc bên của tử cung.

Ngoài ra còn có một dây chằng rất ngắn gọi là dây chằng vòi-buồng trứng, bám từ đầu vòi của buồng trứng tới mặt ngoài của phễu vòi tử cung.

Mạch và thần kinh buồng trứng

Động mạch chủ yếu là động mạch buồng trứng tách ra từ động mạch chủ bụng ở vùng thắt lưng đi trong dây chằng treo buồng trứng để vào buồng trứng ở đầu vòi. Ngoài ra còn có nhánh buồng trứng của động mạch tử cung.

Tĩnh mạch đi theo động mạch, tạo thành một đám rối tĩnh mạch hình dây leo ở gần rốn buồng trứng.

Bạch huyết theo các mạch và đổ vào các hạch bạch huyết ở vùng thắt lưng.

Thần kinh tách từ đám rối buồng trứng, đi theo động mạch buồng trứng để vào buồng trứng.

II.               Vòi tử cung

Vòi tử cung còn gọi là vòi trứng hay vòi Fallope, là hai ống dài khoảng hơn 10 cm, chạy ngang từ buồng trứng tới góc bên tử cung, nằm giữa hai lá bờ tự do của dây chằng rộng.

 Hình thể ngoài

Vòi tử cung có thể phân làm 4 đoạn: phễu vòi, bóng vòi, eo vòi và phần tử cung

Phễu vòi loe ra như cái hình phễu có lỗ bụng của vòi tử cung. Qua lỗ này, vòi tử cung thông với ổ phúc mạc để nhận trứng ở buồng trứng rụng vào vòi. Xung quanh lỗ, phễu vòi có khoảng hơn 10 tua vòi, trong đó có một tua dài nhất gọi là tua buồng trứng dính vào đầu vòi của buồng trứng. Trong thời kỳ rụng trứng, nhờ các nội tiết tố mà tua này cương lên để chuẩn bị hứng trứng rụng vào vòi tử cung.

Bóng vòi là phần phình ra to nhất và dài nhất của vòi tử cung. Thường cắt và thắt vòi tử cung ở đoạn này trong thủ thuật triệt sản. Dưới bóng vòi, giữa hai lá của dây chằng rộng là vật trên buồng trứng, di tích của trung thận

Eo vòi là đoạn hẹp nhất của vòi, tiếp theo bóng vòi tới dính vào góc bên tử cung. Trong trường hợp chửa vòi tử cung, trứng thường hay tắc và làm tổ ở đoạn này.

Phần tử cung: đoạn này nằm trong thành tử cung, dài khoảng 1 cm và thông vào buồng tử cung bởi lỗ của vòi

Cấu tạo

Vòi tử cung được bọc phía ngoài bởi lớp thanh mạc là phúc mạc của dây tròn rộng. Dưới lớp thanh mạc là tấm dưới thanh mạc rồi tới lớp cơ và trong cùng là lớp niêm mạc có nhiều nếp vòi. Thượng mô của niêm mạc vòi có lông chuyển chỉ chuyển một chiều để đẩy trứng về phía buồng tử cung

Mạch và thần kinh

Động mạch và tĩnh mạch là các nhánh vòi của mạch tử cung và mạch buồng trứng nối nhau dọc bờ dưới vòi. Bạch mạch và thần kinh giống như của buồng trứng

III.             Tử cung

Tử cung là một cơ quan chứa thai và đẩy thai ra ngoài lúc đẻ. Tử cung nằm trong chậu hông ngay trên đường giữa, phía sau bàng quang, trước trực tràng, dưới các quai ruột non và kết tràng xích ma và trên âm đạo. Kích thước trung bình là 2 cm bề dày, 4 cm chỗ rộng nhất và 6 cm bề cao. Tử cung hình nón cụt hơi dẹt trước sau, đỉnh quay xuống dưới, có một than, một cổ, phần thắt lại giữa thân và cổ gọi là eo

Hướng và tư thế

Tư thế sinh lý bình thường của tử cung là gấp ra trước và ngả ra trước.

Tử cung gọi là gấp da trước khi trục của thân tử cung hợp với trục của cổ tử cung một góc khoảng 120 độ quay ra phía trước.

Tử cung gọi là ngả ra trước khi trục của thân tử cung hợp với trục của chậu hông hoặc là trục của âm đạo một góc vuông quay ra phía trước.

Đây là tư thế lý tưởng của tử cung nhằm làm cho trọng tâm của tử cung rơi ra phía trước trục âm đạo để tử cung không bị sa xuống âm đạo. Vì vậy một trong những nguyên tắc chữa sa tử cung là làm tử cung gấp và ngả ra trước.

Hình thể ngoài và liên quan Chúng ta lần lượt xem xét liên quan phần thân và liên quan phần cổ

Thân

Thân tử cung có hai mặt: mặt bàng quang và mặt ruột.

Mặt bàng quang lồi, hướng về phía trước dưới, có phúc mạc phủ tới tận eo và lật lên mặt bang quang tạo thành túi cùng bàng quang tử cung. Qua túi cùng này, tử cung liên quan với mặt trên bàng quang

Mặt ruột lồi, hướng lên trên và ra sau, cũng được phúc mạc phủ. Phúc mạc lách xuống tận phần trên âm đạo rồi quặt lên phủ mặt trước trực tràng tạo nên túi cùng trực tràng tử cung. Qua túi cùng, tử cung liên quan với ruột non và kết tràng Sigma. Túi cùng này là nơi thấp nhất của ổ phúc mạc nên dịch trong ổ phúc mạc thường đọng lại ở đây.

Đáy tử cung là bờ trên của than, có phúc mạc phủ liên tiếp từ mặt bàng quang sang mặt ruột đấy. Đáy cũng liên quan với các quai ruột non và kết tràng xích ma. Hai góc bên của thân tử cung liên tiếp với eo vòi tử cung là nơi bám của dây tròn tròn và dây chằng riêng buồng trứng.

Cổ tử cung

Cổ tử cung có âm đạo bám vào chia cổ tử cung thành hai phần, phần trên âm đạo và phần âm đạo. Âm đạo bám vào một quanh cổ tử cung theo một đường chếch xuống dưới và ra trước, ở phần sau bám vào khoảng giữa cổ tử cung còn ở phía trước bám thấp hơn vào khoảng 1/3 dưới cổ

Phần trên âm đạo: ở mặt trước, cổ tử cung dính vào mặt sau dưới bàng quang bởi một tổ chức tế bào lỏng lẻo dễ bóc tách còn ở mặt sau thì có phúc mạc phủ, qua túi cùng trực tràng- tử cung, cổ tử cung liên quan với trực tràng.

Phần âm đạo: phần âm đạo của cổ tử cung trông giống như một mõm cá mè thò vào trong buồng âm đạo, ở đỉnh của mõm có lỗ cổ tử cung. Lỗ hình tròn nếu là người chưa đẻ, còn ở người đã để thì lỗ bè ngang ra. Lỗ được giới hạn bởi 2 mép: trước và mép sau. Lỗ thông vào ống cổ tử cung, ống này thông với trong buồng tử cung. Ở thành trước và thành sau ống, niêm mạc có một nếp dọc và các nếp ngang gọi là nếp lá cọ và có các tuyến cổ tử cung

Các thành âm đạo gây xung quanh mõm cá mè tạo thành vòm âm đạo. Vòm âm đạo là một túi bịt vòng gồm 4 đoạn: túi bịch trước, túi bịt sau và hai túi bịt bên. Túi bịt sau sâu hơn cả và liên quan ở sau với túi cùng trực tràng- tử cung. Do đó có thể thò ngón tay vào âm đạo tới túi bịt sau để thăm khám tình trạng của túi cùng trực tràng tử cung (Chẳng hạn trong trường hợp có mủ hoặc máu đọng ở túi cùng thì bệnh nhân sẽ rất đau)

Các dây chằng

 Tử cung được giữ tại chỗ nhờ một số dây chằng nối tử cung với thành của chậu hông. Dây chằng rộng dây chằng rộng là một nếp gồm hai lá khúc mạc liên tiếp với phúc mạc ở mặt bàng quang và mặt ruột của tử cung bám từ bờ bên tử cung và vòi tử cung tới thành bên chậu hông. Dây chằng rộng có hai mặt và 4 bờ:

+ Mặt trước dưới liên quan với bàng quang và có một nếp phúc mạc đi từ góc bên tử cung tới thành chậu hông do dây chằng tròn đội lên

+ Mặt sau trên liên quan với các quai ruột non và kết tràng Sigma, có dây chằng riêng buồng trứng đội lên và có mạc treo buồng trứng dính vào

+ Bờ trong dính vào bờ bệnh bờ bên tử cung

+ Bờ ngoài dính vào thành bên chậu hông do hai lá phúc mạc của dây chằng rộng liên tiếp ra phía trước và phía sau với phúc mạc thành

+ Bờ trên tự do bọc lấy vòi tử cung

+ Bờ dưới gọi là đáy dây chằng rộng, là nơi 2 phúc mạc cách xa nhau ra để liên tiếp với phía trước và phía sau phúc mặt thành

 Ở đáy dây chằng rộng có động mạch tử cung bắt chéo phía trước niệu quản. Chỗ bắt chéo cách cổ tử cung khoảng 1,5 cm

Phần dây chằng rộng ở trên đáy gọi là phần cánh gồm ba mặt treo: mạc treo tử cung ở trong dưới, mạc treo vòi tử cung ở trên và mạc treo buồng trứng ở sau. Giữa hai lá mạc treo vòi tử cung có vật trên buồng trứng là di tích của vật trung thận.

Dây chằng tròn là một sợi dây chằng mô liên kết dưới khúc mạc dài khoảng 15 cm bám từ góc bên của đáy tử cung chạy ra phía trước đội lá trước của dây chằng rộng lên rồi chui vào lỗ bên sâu đi trong ống bẹn ra lỗ bẹn nông, rồi tỏa ra thành nhiều sợi nhỏ để tận hết ở mô liên kết của gò mu và môi lớn của âm hộ.

Dây chằng tử cung cùng là một dải mô liên kết và cơ trơn bám từ mặt sau cổ tử cung ở gần bờ bên rồi tỏa ra sau và lên trên, đi hai bên trực tràng, đội phúc mạc lên thành nếp trực tràng- tử cung. Nếp này là giới hạn bên của túi cùng trực tràng-tử cung. Sau cùng, dây chằng tử cung cùng bám vào mặt trước xương cùng.

Dây chằng ngang cổ tử cung hay Dây chằng Makenrodt cũng là một cái mô xơ liên kết bám từ bờ bên cổ tử cung ngay trên phần bên vòm của âm đạo rồi đi ngang sang thành bên chậu hông dưới đáy dây chẳng rộng và trên hoành chậu hông.

Hình thể trong của tử cung

Buồng tử cung

Tử cung được đục rỗng thành một khoang dẹt theo chiều trước sau và thắt lại ở chỗ eo tử cung chia khoang thành hai buồng: buồng nhỏ ở dưới nằm trong cổ tử cung gọi là ống cổ tử cung và buồng to ở trong tử cung gọi là buồng tử cung có hình tam giác mà ba cạnh lồi về phía lòng tam giác. Hai góc bên thông với vòi tử cung còn góc dưới thông với ống cổ tử cung. Hai thành trước và sau của buồng tử cung áp sát vào nhau. Chiều sâu trung bình từ lỗ cổ tử cung tới đáy buồng khoảng 3 cm.

Cấu tạo của tử cung: Tử cung được cấu tạo từ ngoài vào trong gồm

+ Lớp thanh mạc hay lớp ngoài tử cung: lớp này là phúc mạc bọc tử cung đã được mô tả ở phần liên quan. Dưới lớp thanh mạc là tấm dưới thanh mạc.

+ Lớp cơ hơi khác nhau ở phần thân và phần cổ:  ở phần thân tử cung có 3 tầng cơ. Tầng ngòai gồm các thớ cơ dọc và một ít cơ vòng. Tầng giữa rất dày, gọi là lớp cơ rối gồm các thớ cơ đan chéo nhau chằng chịt cuốn lấy các mạch máu. Vì có rất nhiều mạch máu nên người ta gọi tầng này là tầng mạch. Chính nhờ tầng cơ giữa này mà mạch máu được cầm lại khi sinh đẻ. Tầng trong chủ yếu gồm các thớ cơ vòng.

Ở phần cổ tử cung, cơ mỏng hơn nhiều và không có từng cơ rối. Chỉ có một tầng cơ vòng kẹp giữa hai tầng cơ dọc.

+ Lớp niêm mạc hai lớp trong tử cung mỏng mảnh và dính chặt vào lớp cơ. Niêm mạc dày mỏng theo chu kỳ kinh nguyệt hàng tháng và khi bong ra thì gây hiện tượng kinh nguyệt

Mạch và thần kinh của tử cung

Động mạch

Tử cung nhận máu từ động mạch tử cung. Động mạch tử cung là một nhánh của động mạch chậu trong đi theo ba đoạn đoạn:

+Đoạn thành bên chậu hông: động mạch áp sát vào mạc cơ bịt trong giới hạn nên phía dưới hố buồng trứng

+ Đoạn đáy dây chằng rộng: động mạch chạy ngang từ thành bên chậu hông đi trong đáy dây chằng rộng tới bờ bên tử cung

Động mạch bắt chéo phía trước niệu quản ở cách cổ tử cung khoảng 1,5 cm. Cần chú ý để không kẹp vào niệu quản khi thắt động mạch tử cung

+ Đoạn bờ bên tử cung: động mạch từ đáy dây chằng rộng tới sát cổ tử cung, rồi quặt lên, chạy sát vào bờ bên thân tử cung. Ở đoạn này, động mạch chạy xoắn ốc để có thể giãn ra khi tử cung to lên lúc chứa thai

Trên đường đi, động mạch cho các nhánh bên cho niệu quản, bàng quang, âm đạo, cổ và thân tử cung. Động mạch tận cùng ở góc bên thân tử cung, giữa chỗ bám của dây chằng tròn và dây chằng riêng buồng trứng bằng cách chia hai nhánh cùng là nhánh buồng trứng và nhánh vòi trứng. Hai nhánh này nối với hai nhánh tương ứng của động mạch buồng trứng.

Tĩnh mạch

Tĩnh mạch tử cung đổ vào các đám rối tĩnh mạch dày đặc ở bờ bên tử cung. Các đám rối này sẽ nối với các đám rối buồng trứng, rồi cùng đổ về các tĩnh mạch tử cung và sau cùng với tĩnh mạch chậu trong.

Bạch mạch

Các bạch mạch ở cổ và thân tử cung thông nối nhau và đổ vào một thân chung, chạy dọc bên ngoài động mạch tử cung và cuối cùng đổ vào các hạch bạch huyết của các động mạch chậu và động mạch chủ bụng.

Thần kinh

 Tử cung được chi phối bởi đám rối thần kinh tử cung âm đạo. Đám rối này tách ra từ đám rối thần kinh hạ vị dưới, đi trong dây chằng tử cung cùng để tới tử cung ở chỗ eo tử cung.

IV.            Âm đạo

Âm đạo là một ống cơ mạc rất đàn hồi dài trung bình khoảng 8 cm, bám từ cổ tử cung tới tiền đình âm hộ. Âm đạo nằm sau bàng quang và trước trực tràng, chạy chếch ra trước và xuống dưới theo trục chậu hông nên trục âm đạo hợp với đường ngang một góc 70 độ quay ra phía sau. Hai thành trước và sau âm đạo áp sát vào nhau, thành sau dài hơn thành trước 1 đến 2 cm.

Liên quan

Âm đạo có hai thành thành trước và thành sau, hai bờ bên và hai đầu trên và dưới.

+ Thành trước liên quan ở trên với bàng quang và niệu quản và ở dưới với niệu đạo. Giữa âm đạo và các cơ quan này ngăn cách bởi một vách mô liên kết. Có thể bị rò bằng qua âm đạo trong các trường hợp đẻ khó bị rách thành trước âm đạo

+ Thành sau liên quan từ trên xuống dưới với túi cùng trực tràng tử cung rồi với mặt trước trực tràng cho tới tận các lớp mạc đáy chậu. Ở phía trên lớp mạc cơ đáy chậu, khi âm đạo tiếp tục đi chếch ra trước thì ống hậu môn bẻ gập ra phía sau tạo thành khoảng tam giác âm đạo trực tràng, nơi có trung tâm gân của đáy chậu. Âm đạo cũng ngăn cách với trực tràng bởi một vách mô liên kết xơ, có thể bị rò âm đạo trực tràng trong trường hợp đẻ khó như rò bàng quang âm đạo.

+ Bờ bên âm đạo: ở 2/3 trên bờ nằm trong chậu hông và liên quan với niệu quản và các nhánh của mạch và thần kinh âm đạo cũng như lớp mô tế bào liên kết trong khoang chậu hông dưới phúc mạc. Ở 1/3 dưới âm đạo bờ liên quan với lớp cân cơ đáy chậu, cụ thể là bờ trong cơ nâng hậu môn và lớp mạc cơ đáy chậu giữa.

+ Đầu trên dính xung quanh cổ tử cung thành vòm âm đạo

+ Đầu dưới âm đạo mở vào tiền âm hộ. Ở trinh nữ, lỗ dưới âm đạo này được đậy bởi một nếp niêm mạc thủng ở giữa gọi là màng trinh. Khi đẻ màng trinh bị rách da và thành các mảnh rách màng trinh. Lỗ dưới âm đạo có các thế cơ hành hang bao quanh như là một cơ thắt âm đạo.

Hình thể trong

Ở mặt trong âm đạo có những nếp ngang do niêm mạc dày lên gọi là các gờ âm đạo. Ở mặt trước và mặt sau lại có một lồi dọc gọi là cột âm đạo. Cột trước thường phát triển hơn cột sau.

Về cấu tạo, âm đạo có hai lớp: lớp cơ có hai tầng, tầng dọc ở ngoài, tầng vòng ở trong và lớp niêm mạc thường không có tuyến. Các chất nhầy ở âm đạo thường là do tuyến cổ tử cung tiết ra. Tấm dưới niêm mạc có nhiều mạch máu giống như một tạng cương.

Mạch và thần kinh

Động mạch cho âm đạo tách từ động mạch tử cung hoặc từ động mạch trực tràng giữa hoặc trực tiếp từ động mạch chậu trong. Tĩnh mạch tạo thành một đám rối nối với đám rối tĩnh mạch tử cung ở trên, đám rối tĩnh mạch bàng quang ở trước và sau cùng đổ vào tĩnh mạch chậu trong. Bạch huyết đổ vào chuỗi động mạch tử cung hoặc động mạch âm đạo rồi vào các hạch chậu. Thần kinh tách từ đám rối hạ vị

V.                Bộ phận sinh dục ngoài của nữ giới

Bộ phận sinh dục của ngoài của nữ giới gồm có âm hộ, âm vật và lỗ niệu đạo.

Âm hộ gồm có gò mu, môi lớn, môi bé và tiền đình. Gò mu là một mô nổi lên ở trước âm hộ liên tiếp phía dưới với môi lớn, phía trên với thành bụng hai bên với nếp lằn bẹn. Ở dưới da vùng gò mu là một lớp tổ chức mỡ rất dày.

Môi lớn môi lớn là 2 nếp da lớn giới hạn hai bên âm hộ. Môi lớn dài khoảng 8 cm và rộng 2 cm, ngăn cách với ra đùi bởi một rãnh gọi là rãnh sinh dục đùi. Bò trong tự do giới hạn nên khe âm hộ. Hai môi lớn gặp nhau ở phía trước tạo thành mép môi trước có nhiều lông môi che phủ và gặp nhau ở phía sau tạo thành mép môi sau cách hậu môn khoảng 3 cm. Về cấu tạo, môi lớn gồm có da, lớp cơ trơn đác- tốt và một lớp mỡ dày có nhiều sợi chun đàn hồi. Dây chằng tròn qua ống bẹn sẽ bám vào đây. Thoát vị bẹn ở nữ rất hiếm gặp, có thể xảy ra ở đây. Mỏm bọc phúc mạc âm hộ tức là ống Nuck, đôi khi bám ở phần này của môi lớn.

Môi bé môi bé là hai nếp niêm mạc nhỏ bề dài khoảng 5 cm và rộng 0,5 cm nằm sau môi lớn và ngăn cách với môi lớn bởi rãnh gian môi. Đầu trước tách ra thành nếp nhỏ để bọc lấy âm vật gọi là mũ âm vật. Đầu sau dính với bên đối diện để thành một nếp khác gọi là hãm môi âm hộ.

Tiền đình

Tiền đình âm đạo là một lõm giới hạn hai bên bởi mặt trong môi bé, trước là âm vật, sau là hãm môi ấm hộ. Ở đáy tiền đình có lỗ ngoài niệu đạo, lỗ âm đạo, hành tiền đình và các lỗ tiết của các tuyến tiền đình lớn và các tuyến tiền đình bé.

Âm vật

Âm vật tương đương với dương vật ở nam giới nhưng nhỏ hơn nhiều. Âm vật là một tạng cương như dương vật nằm ngay ở đầu trước khe âm hộ dưới khớp mu. Nó cũng được cấu tạo bởi hai vật hang và cũng gồm hai trụ, một thân và một quy đầu âm vật. Ở phía dưới, quy đầu dính với môi bé bởi một nếp niêm mạc gọi là hãm âm vật.

Mạch và thần kinh của bộ phận sinh dục ngoài

Động mạch của gò mu và môi lớn, môi bé là động mạch thẹn ngoài tách từ động mạch đùi.

Động mạch của âm vật và hành tiền đình, tuyến tiền đình là các nhánh đáy chậu nông, nhánh hang và nhánh mũ âm vật tách từ động mạch thẹn trọng.

Tĩnh mạch đổ vào các tĩnh mạch mu nông và mu sâu rồi vào các đám rối tĩnh mạch để về tĩnh mạch thẹn trong và ngoài.

Bạch mạch của bộ phận sinh dục ngoài đổ về các hạch bẹn nông, riêng của âm vật thì đổ về các hạch bẹn sâu hoặc các hạch chậu.

Thần kinh của gò mu và môi môi lớn là các nhánh sinh dục của dây thần kinh chậu bẹn và sinh dục đùi. Các phần khác là các nhánh đáy chậu của thần kinh thẹn. Cũng có một số sợi giao cảm và thực vật từ đám rối hạ vị đi vào hành tiền đình, tuyến tiền đình và vật hang âm vật.

VI.           

Vú là hai cơ quan chứa tuyến sữa nằm ở thành trước ngực, hình nửa khối cầu tròn và lồi hơn ở phía dưới tạo thành rãnh dưới vú ngăn cách vú với da ngực, rãnh này càng sâu nếu người càng nhiều tuổi do vú bị chảy xệ xuống. Thường chỉ có hai vú nhưng trường hợp dị dạng có thể có một dãy vú phụ.

Hình thể ngoài

Ở trung tâm mặt trước có một lồi tròn gọi là nhú vú hay đầu vú, có nhiều lỗ nhỏ là lỗ tiết của các ống tiết sữa. Xung quanh đầu vú có một lớp da sẫm hơn gọi là quầng vú. Ở mặt quầng vú nổi lên những cục nhỏ do các tuyến bã của quầng vú đẩy lồi lên.

Cấu tạo

Từ nông vào sâu vú được cấu tạo bởi:

+ Da mềm mại được tăng cường bởi các thớ cơ trơn ở quầng vú.

+ Mô liên kết dưới da tạo thành các hố mỡ

+ Các tuyến sữa là loại tuyến chùm tạo thành các tiểu thùy. Nhiều tiểu thùy hợp lại thành các thùy. Mỗi thùy đổ ra đầu vú bởi một ống tiết sữa. Trước đi đổ ra đầu vú, các ống tiết sữa phình ra thành các xoang sữa.

+ Lớp mỡ sau vú rất dày, ngay trên mạc lông của ngực (hay bị áp xe vú ở đây)

Mạch và thần kinh

Động mạch là các nhánh tách ra từ động mạch ngực trong và động mạch ngực ngoài.

Tĩnh mạch tạo thành một mạng nông, nhìn rõ khi có thai hoặc nuôi con bú. Các tĩnh mạch sâu đổ về các tĩnh mạch ngực trong và ngực ngoài.

Bạch mạch đổ về ba chuỗi hạch là hạch nách, chuỗi hạch ngực trong, chuỗi hạch trên đòn.

Thần kinh do các nhánh trên đòn của đám rối cổ lông và các nhánh xiên của dây gian sườn II III IV V VI.


Nhận xét