Tránh thai nội tiết: Các hệ thống phóng thích steroid tác dụng dài (LASDS)
Đỗ Thị Ngọc Mỹ, Âu Nhựt Luân
Mục tiêu bài giảng
Sau khi học xong, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được cấu tạo của các hệ thống phóng thích steroid tác dụng dài (Long Acting Steroid Delivery Systems)
2. Trình bày được cơ chế của tác dụng tránh thai của các LASDS
3. Phân tích được tính hiệu quả tránh thai của LASDS
4. Phân tích được tính an toàn của LASDS
5. Trình bày được các mức độ giới hạn việc dùng của LASDS
6. Hướng dẫn được cách tránh thai bằng DMPA tiêm, LNG Implant, dụng cụ tử cung phóng thích LNG
Tránh thai bằng các hệ thống phóng thích steroid tác dụng
dài (Long Acting Steroid Delivery Systems) (LASDS) là
các phương pháp tránh thai tạm thời có hiệu quả tránh thai
cao nhất.
Tiếc rằng, dù là hiệu quả tránh thai cao, nhưng tính chấp
nhận lại không cao. Vì thế, tư vấn đóng vai trò rất quan
trọng trong việc giúp khách hàng tiếp tục sử dụng hay
ngưng một LASDS cụ thể nào đó, đặc biệt là khi có tác
dụng phụ.
Các LASDS có thành phần hoạt chất là một progestogen.
Progestogen được phóng thích với lượng vừa đủ hàng
ngày.
EE giúp tránh thai bằng cách ngăn sự phát triển của noãn
nang. Tuy nhiên, EE không phải là yếu tố duy nhất giúp
tránh thai.
Progestogen ngăn hiện tượng phóng noãn. Nếu không có
EE, thì progestogen vẫn có thể tạo được hiệu quả tránh
thai nhờ nhiều cơ chế khác. Các LASDS được thiết kế trên
nên tảng phương pháp tránh thai không EE, nhằm tránh
được tác dụng không mong muốn quan trọng nhất của EE
là tắc mạch do huyết khối.
Thành phần chính của LASDS là một progestogen. Các
LASDS phóng thích mỗi ngày một lượng vừa đủ
progestogen để đảm bảo tác dụng.
Các LASDS khác nhau về loại progestogen, đường dùng
cũng như lượng progestogen được phóng thích hàng ngày.
Các LASDS khác nhau tùy theo loại progestogen, trữ
lượng, đường dùng và phương thức phóng thích.
1. Các “kho chứa trong mô”
2. Que cấy dưới da
3. Dụng cụ tử cung phóng thích progestogen
4. Vòng đặt âm đạo phóng thích chậm steroid
Các “kho chứa trong mô” (depot) phóng thích chậm
Medroxy Progesterone Acetate là dạng phổ biến nhất của
LASDS tại Việt Nam cũng như các nước đang phát triển.
Medroxy Progesterone Acetate (MPA) ở dạng huyền dịch
treo trong nước, được đưa vào cơ thể bằng đường tiêm:
Tiêm bắp sâu: Depo-provera-IM® thương phẩm trình
bày dưới dạng lọ chứa huyền dịch MPA. Khi tiêm
phải dùng kim 18G dài để nạp thuốc và tiêm bắp sâu.
Tiêm dưới da: Depo-provera-SC ® thương phẩm là
ống tiêm chuẩn bị sẵn có kim nhỏ, chứa huyền dịch
MPA treo trong nước.
Sau khi được tiêm, MPA được tồn trữ ngay tại vị trí tiêm,
dưới dạng một “kho chứa” trong cơ hay dưới da, và được
phóng thích dần vào huyết tương. Để đảm bảo hình thành
kho chứa, không xoa sau khi tiêm.
Sau một lần tiêm 150 mg Depo-provera-IM®, hoặc104 mg
Depo-provera-SC®, mỗi ngày sẽ có một lượng cao MPA
được phóng thích khỏi kho dự trữ để tạo nên một nồng độ
huyết thanh bình nguyên của MPA, khoảng 1 ng/mL, giúp
tránh thai. Thời gian tiêu thụ toàn bộ lượng MPA đưa vào
cơ thể là 12 tuần.
Ngoài đường dùng khác biệt, không có khác biệt nào khác
giữa Depo-provera-IM® và Depo-provera-SC®.
Vô kinh và rong huyết thường hay gặp, và thường không
đáp ứng hay cải thiện với việc cho thêm nội tiết ngoại sinh
khác. Các tác dụng ngoại ý thường có xu hướng tăng nhiều
hơn sau hơn 1 năm dùng thuốc.
Rong huyết dưới DMPA thường là do nội mạc tử cung bị
ảnh hưởng không đều bởi tác dụng kháng estrogenic của
MPA. Nội mạc tẩm nhuận nội tiết không đều, gây sụp đổ
từng phần ở nội mạc.
Khi có rong huyết kéo dài, biện pháp trước tiên có thể
dùng thử là NSAIDs.
Estrogen liều thấp có thể được dùng trong trường hợp thất
bại với NSAIDs.
Hình 1: Depo-provera IM® (trái), Depo-provera SC® (giữa) và công thức
của medroxyprogesterone acetate (MPA)
2 dạng bào chế của DMPA chỉ khác nhau ở đường dùng.
DMPA được tiêm vào đầu của một chu kz kinh bình thường, muộn nhất
là vào ngày thứ 5, khi chắc chắn rằng người dùng không đang có thai.
Một mũi tiêm DMPA cho tác dụng tránh thai kéo dài trong 12 tuần.
Các mũi tiêm cách nhau 12 tuần, bất kể hành kinh.
Không xoa vùng tiêm sau khi tiêm.
Nguồn: Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP HCM
Các que cấy dưới da có bản chất là một “kho chứa”.
Trong các que cấy dưới da, hormone ngoại sinh được cách
ly với mô bằng một màng đặc biệt đảm bảo việc phóng
thích một lượng hằng định progestogen mỗi ngày vào
huyết tương.
Các thương phẩm que cấy tránh thai khác nhau ở loại
progestogen và số que phải cấy mỗi lần.
Các thương phẩm que cấy trước đây (Norplant®) sử dụng
một progestogen thế hệ cũ là levonorgestrel (LNG). Do
đặc tính dược động học và dược lực học của LNG, cần
phải cấy 6 que ở mỗi lần, gây nhiều bất tiện cho người
dùng, cả khi đặt vào lẫn khi tháo ra. Norplant® được cấy
vào đầu của một chu kỳ kinh bình thường, muộn nhất là
vào ngày thứ 5, khi đã chắc chắn rằng người dùng không
đang có thai. Một bộ Norplant® cho tác dụng tránh thai
kéo dài trong 5 năm. Cần thay Norplant® sau mỗi 5 năm.
Trong 6%, việc lấy que gặp nhiều khó khăn và đau đớn,
làm nản lòng khi người dùng muốn dùng tiếp. Vô kinh rất
thường gặp với Norplant®. Vì thế cần tư vấn kỹ về vấn đề
này cho người dùng.
Hình 2a: Vị trí đặt và cách phân bố 6 thanh của Norplant®
Norplant® không được ủng hộ do phải đặt quá nhiều thanh, gây khó
khăn cho cả khi đặt và tháo.
Hình 2b: Lấy Norplant® luôn là một việc khó khăn
Chính các khó khăn khi đặt và tháo làm nản lòng người dùng Norplant®
Nguồn: Mlb-community.org
Thương phẩm gần đây, Implanon®, dùng một progestogen
thế hệ mới là etonogestrel (ETG). Implanon® có ưu điểm
là chỉ gồm một que cấy duy nhất, có trữ lượng ETG là 68
mg, phóng thích khoảng 60 µg ETG mỗi ngày, đảm bảo
duy trì hiệu quả tránh thai trong 3 năm. Vị trí đặt kín đáo,
việc đặt và tháo ra để thay dễ dàng hơn Norplant® làm tăng
tỉ lệ chấp nhận của người dùng. Implanon® cũng được cấy
vào đầu của một chu kỳ kinh bình thường, muộn nhất là
vào ngày thứ 5, khi đã chắc chắn rằng người dùng không
đang có thai.
Hình 3: Vị trí đặt của Implanon®: mặt trong cánh tay.
Implanon® chỉ có một que, cho tác dụng tránh thai kéo dài trong 3 năm.
Tuy nhiên, việc lấy que không phải lúc nào cũng dễ dàng, làm nản lòng
khi người dùng muốn dùng tiếp. Vô kinh rất thường gặp với Implanon®.
Cần tư vấn kỹ.
Nguồn: Schering-Plough pharmaceutical Ltd.
Dụng cụ tử cung tránh thai phóng thích LNG cũng là “kho
chứa” phóng thích chậm LNG. Được đặt trong buồng tử
cung, đây là “kho chứa” nằm nửa trong nửa ngoài cơ thể.
Mirena® , Liletta® là một loại dụng cụ tử cung tránh thai
phóng thích progestogen (IUD-LNG).Chúng có hình dạng
là một dụng cụ tử cung dạng chữ T, với phần thân mang
một bầu với màng đặc biệt, cho phép phóng thích một
lượng hằng định khoảng 20 µg LNG mỗi ngày.
Lượng LNG phóng thích hàng ngày có thể giảm dần sau 3
năm, nhưng vẫn trên ngưỡng đảm bảo hiệu lực tránh thai.
Mirena® có trữ lượng LNG là 52mg, đảm bảo duy trì hiệu
quả tránh thai trong 5 năm. Các IUD-LNG có nhiều nồng
độ, nhưng các dung lượng cao được ưa chuộng hơn do thời
hạn phải thay xa hơn. Liletta® chỉ có tác dụng trong 3 năm.
Hình 4: Mirena® (trái) và Liletta® (phải)
Mirena® có bầu chứa to LNG hơn, làm cho nó không thật mềm dẻo.
Liletta® có bầu chứa nhỏ hơn, nên làm tăng tính mềm dẻo, làm giảm sự
khó chịu liên quan đến độ cứng của dụng cụ tử cung.
Nguồn: Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP HCM
Mirena® và Liletta® có ưu điểm quan trọng là một kho
chứa nằm “ngoài” cơ thể. Chúng được đặt vào buồng tử
cung, vị trí rất dễ tiếp cận cho cả việc đặt và tháo. LNGIUD được đặt vào đầu của một chu kỳ kinh bình thường,
muộn nhất là vào ngày thứ 5, khi đã chắc chắn rằng người
dùng không đang có thai. Việc thay LNG-IUD rất dễ dàng,
làm tăng tỉ lệ duy trì dùng tiếp.
Vô kinh khá thường gặp với LNG-IUD, nên cần tư vấn kỹ.
Vòng đặt âm đạo Nuva-Ring® chứa cả 2 steroids là EE và
etonogestrel. Nuva-Ring® được đặt vào âm đạo, là một kho
chứa nằm gần như là ngoài cơ thể.
Mỗi ngày, Nuva-Ring® phóng thích 120 µg ETG và 15 µg
EE, và được hấp thu tại âm đạo. Nuva-Ring® được đặt vào
âm đạo và lưu lại trong 21 ngày. Sau đó cần lấy ra, và đặt
mới lại sau 7 ngày.
Dù là dùng ngả âm đạo, Nuva-Ring® vẫn có đủ các tác
dụng bất lợi của EE, đặc biệt là thuyên tắc mạch. Nói một
cách khác, về mặt bản chất, Nuva-Ring® giống một COCs,
nhưng được dùng qua đường âm đạo, với steroids được
phóng thích chậm.
Hình 5: Nuva-Ring®: LASDS duy nhất có chứa EE, được đặt vào âm đạo.
Dù dùng ngả âm đạo, Nuva-Ring® vẫn có đủ các tác dụng bất lợi của EE.
Nguồn: drugdefectinjuries.com (hình trái), edc2.healthtap.com (hình phải)
Cơ chế tránh thai của các LASDS không giống nhau, do sự
khác biệt trong liều lượng phóng thích progestogen hàng
ngày của từng loại LASDS cũng như hoạt tính
progestogenic của hoạt chất.
Cơ chế tránh thai của LASDS có thể là
1. Ngăn phóng noãn bằng cách ức chế LH
2. Tác dụng progestogenic làm nội mạc không tương
thích cho làm tổ và thay đổi chất nhầy CTC
3. LNG-IUD còn có thêm cơ chế tác dụng của IUD
Depo-provera® phóng thích hàng ngày một lượng tương
đối lớn MPA. Lượng MPA này đủ để gây ức chế LH nội
sinh, và ngăn sự phóng noãn. MPA làm cho chất nhầy cổ
tử cung trở nên đặc, làm cho tinh trùng không thể xâm
nhập chất nhầy cổ tử cung. Sự hiện diện kéo dài và liên tục
của MPA làm nội mạc tử cung không còn thích hợp cho sự
làm tổ của trứng trong trường hợp có hiện tượng thụ tinh.
Implanon® phóng thích hàng ngày một lượng nhỏ ETG.
Lượng ETG này đủ để gây ức chế LH nội sinh, và ngăn sự
phóng noãn. ETG làm cho chất nhầy cổ tử cung trở nên
đặc, làm cho tinh trùng không thể xâm nhập chất nhầy cổ
tử cung. Sự hiện diện kéo dài và liên tục của ETG làm nội
mạc tử cung không còn thích hợp cho sự làm tổ của trứng
trong trường hợp có hiện tượng thụ tinh.
Khác với 2 LASDS trên, LNG-IUD không tạo ra được một
ức chế hoàn toàn trên trên LH, vì vậy dưới LNG-IUD
phóng noãn bị thay đổi ở các mức độ khác nhau. Tác dụng
tránh thai chủ yếu của LNG-IUD là tạo ra các thay đổi tại
nội mạc tử cung, đông đặc chất nhầy cổ tử cung. LNGIUD còn có tác dụng bằng cơ chế tránh thai tại chỗ của
dụng cụ tử cung.
LASDS có hiệu quả tránh thai rất cao, và không lệ thuộc
người dùng. Cần tuân thủ hạn tác dụng để duy trì hiệu quả.
Các LASDS khác nhau ở cơ chế tránh thai, vì thế chúng có
hiệu quả khác nhau.
Hình 6: Các LASDS có hiệu quả tránh thai rất cao, cao nhất trong các biện
pháp tránh thai tạm thời
Nguồn: FertilityDeva.com
Implanon® có cơ chế tránh thai đa tầng, với ức chế hoàn
toàn phóng noãn nên có hiệu quả tránh thai rất cao, khoảng
0.05 HWY. DMPA cũng ức chế phóng noãn, nhưng hình
thức “kho chứa trong cơ” làm cho sự hàm lượng huyết
tương của MPA không ổn định, đặc biệt là trong các tuần
cuối của thời hạn 12 tuần. Vì thế, dù cũng tránh thai bằng
cơ chế đa tầng, nhưng hiệu quả tránh thai của Depoprovera® chỉ là 6 HWY.
LNG-IUD không ức chế tuyệt đối phóng noãn, nhưng cơ
chế tránh thai đa tầng phối hợp với cơ chế tránh thai của
dụng cụ tử cung, vốn đã có hiệu quả cao, nên LNG-IUD có
hiệu quả tránh thai khoảng 0.2 HWY.
Do progestogen từ các LASDS được đưa vào cơ thể một
cách hằng định, cũng như không đòi hỏi một tuân thủ dùng
thuốc, nên hiệu quả tránh thai thực tế của các LASDS
không khác biệt so với hiệu quả lý thuyết của chúng.
Tuy nhiên, một số yếu tố có thể làm thay đổi dược động
học của progestogen như trong trường hợp béo phì. Ở
người dùng có béo phì, nồng độ steroid có thể bị ảnh
hưởng, tuy nhiên không có chứng cứ chứng minh rằng béo
phì làm giảm hiệu quả của các LASDS.
Các thuốc ảnh hưởng đến chuyển hóa progestogen, như
các thuốc chống động kinh, cũng làm giảm hiệu quả tránh
thai của nhiều loại LASDS hay COCs.
LASDS dưới bất cứ hình thức nào cũng phóng thích
progestogen từ kho chứa. Khi đến hạn tác dụng được
khuyến cáo, thì dù vẫn còn một lượng hoạt chất trong các
kho, người dùng vẫn phải thay mới kho chứa để duy trì
nồng độ progestogen ở ngưỡng tác dụng. Chậm trễ trong
thay mới có thể dẫn đến thai kỳ ngoài ý muốn.
LASDS là một biện pháp tránh thai an toàn. Cần lưu ý một
số tác dụng bất lợi liên quan đến progestogen.
Do có liên quan đến nguy cơ gây thuyên tắc mạch và xơ
vữa mạch máu, EE là yếu tố chính gây nên các tác dụng
bất lợi của tránh thai nội tiết. Thành tố EE quyết định các
yếu tố giới hạn chỉ định của tránh thai nội tiết. Khi tránh
thai nội tiết bằng LASDS (ngoại trừ Nuva-Ring®), do
không dùng EE, nên ta đã loại được một số lớn các giới
hạn chỉ định của tránh thai nội tiết.
Tuy nhiên, thuyên tắc mạch máu không chỉ liên quan đến
EE. Một số progestogen cũng bị nghi ngờ có thể gây
thuyên tắc, có lẽ qua các chuyển hóa chất trung gian là các
estrogen yếu. Vì thế các yếu tố giới hạn chỉ định chỉ còn
liên quan đến loại progestogen được dùng. Nor-ehindrone
(NET) và MPA có nguy cơ tiềm ẩn cao hơn LNG và ETG.
Progestogen cũng tạo ra một số giới hạn của chỉ định khác
của LASDS, liên quan đến đường mật, xơ vữa mạch máu.
Hình 7: Chuyển hóa của progesterone và testosterone
Progesterone, testosterone cùng là tiền chất của estrogen. Chất chuyển
hóa của progestogen có thể gây tác dụng bất lợi liên quan với estrogen.
Nguồn: Estrogen and progestin
Theo WHO, ở vài trường hợp, việc dùng LASDS được
xếp loại 3. Dùng LASDS rất hiếm khi được xếp vào loại 4.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (2015) 1, các yếu tố giới hạn
việc dùng của LASDS gồm:
Loại 4 (không được dùng trong mọi điều kiện, do nguy cơ
đã xác định):
Ung thư vú đang tiến triển hay đang điều trị.
Loại 3 (không nên dùng do nguy cơ lý thuyết là lớn, lớn
hơn lợi ích được mong đợi ở phương pháp):
Do nguy cơ nam hóa của progestogen gây cho trẻ sơ
sinh: hậu sản dưới 6 tuần và có nuôi con bằng sữa mẹ.
Nguy cơ thuyên tắc mạch máu: đang có bệnh lý
thuyên tắc; hiện diện cùng lúc nhiều yếu tố nguy cơ
của bệnh lý tắc mạch 2.
Nguy cơ xơ vữa mạch máu: có tiền sử hay đang có
bệnh lý mạch vành hay đột quị; tình trạng tăng huyết
1 World Health Organization: Medical eligibility criteria for contraceptive
use. Fifth edition, 2015. Trang 156-174.
2 Xếp loại 3 nếu loại progestogen dùng là NET hay MPA, nhưng chỉ là
loại 2 nếu progestogen là LNG hay ETG.
áp chưa ổn định 3; lupus ban đỏ có kháng thể kháng
phospholipid; tiểu đường có biến chứng võng mạc 4
hay tiểu đường kéo dài trên 20 năm 5.
Liên quan đến các bệnh lý lệ thuộc estrogen hoặc bị
tăng nặng bởi progestogen: ung thư vú đã điều trị và
đã khỏi hơn 5 năm; xuất huyết tử cung bất thường
nhưng chưa xác lập được chẩn đoán; bệnh lý đường
mật; xơ gan hay u gan.
LASDS có thể có một số tác dụng ngoại ý liên quan đến
bất thường trong hành kinh gồm AUB-I và vô kinh.
Tư vấn là quan trọng.
Nội mạc tử cung bị ảnh hưởng rất nhiều do mất đồng bộ,
không còn sự hiệp đồng estrogen-progesterone. Chính điều
này tạo ra hiệu quả tránh thai cho LASDS, nhưng cũng
chính nó lại gây khó chịu cho người dùng do thay đổi tính
chất hành kinh.
DMPA, que cấy gây vô kinh do không phóng noãn, trong
khi đó LNG-IUD gây vô kinh do tác dụng trực tiếp của
LNG trên nội mạc tử cung.
Cả DMPA, que cấy lẫn LNG-IUD đều có thể gây rong
huyết, không có tính chu kỳ do tác động không đồng bộ
của estrogen-progesterone trên nội mạc.
Xuất huyết tử cung bất thường có thể thấy khi dùng bất cứ
LASDS nào. Tuy nhiên thường thấy xuất huyết tử cung bất
thường khi dùng DMPA, so với khi dùng các LASDS
khác. Các LASDS thường gây xuất huyết bất thường
nhưng tỉ lệ này sẽ giảm dần theo thời gian.
Nếu ra huyết rỉ rả kéo dài có thể sử dụng estrogen đường
uống, trong 7-10 ngày.
Vô kinh có thể gặp trong tất cả các LASDS, phổ biến nhất
là với Implant, LNG-IUS. 80% phụ nữ dùng DMPA sẽ vô
kinh sau 5 năm tiêm thuốc.
Sau khi ngưng ngừa thai bằng DMPA, 50% phụ nữ sẽ có
kinh lại trong vòng 6 tháng, nhưng 25% sẽ không có kinh
lại trong vòng 1 năm.
Vì những lý do trên, người dùng LASDS cần được tư vấn
một cách đầy đủ về các rối loạn hành kinh, nhằm tránh
việc ngưng phương pháp do không hiểu biết về các tác
dụng ngoại ý này.
Mất cân bằng estrogen-progesterone còn thể hiện bằng các
khó chịu khác như đau vú, ói, nhức đầu… Vì thế, khi tư
vấn dùng LASDS, cần lưu ý đến các tác dụng phụ này.
DMPA (không phải là tất cả các LASDS) có liên quan đến
giảm mật độ xương không hồi phục.
Do DMPA ức chế một phần hoạt động chế tiết estrogen từ
buồng trứng nên DMPA (không phải là tất cả các LASDS)
có liên quan đến giảm mật độ xương không hồi phục.
Vì thế, DMPA không phải là lựa chọn ưu tiên cho tránh
thai ở trẻ vị thành niên hay người có nguy cơ loãng xương.
3Xếp loại 3 nếu loại progestogen dùng là NET hay MPA, nhưng chỉ là
loại 2 nếu progestogen là LNG hay ETG.
4Xếp loại 3 nếu loại progestogen dùng là NET hay MPA, nhưng chỉ là
loại 2 nếu progestogen là LNG hay ETG.
5Xếp loại 3 nếu loại progestogen dùng là NET hay MPA, nhưng chỉ là
loại 2 nếu progestogen là LNG hay ETG.
Nên cân nhắc việc dùng DMPA kéo dài, nhất là khi thời
gian dùng là trên 2 năm.
Ngoài tác dụng tránh thai, các LASDS còn thường xuyên
được dùng trong điều trị nhiều bệnh lý phụ khoa cần đến
hoạt tính kháng estrogenic hay hoạt tính progestogenic.
DMPA được dùng trong rất nhiều điều trị cần đến hoạt
tính progestogenic kéo dài hay cần đến hoạt tính kháng
estrogenic kéo dài. Tăng sinh nội mạc tử cung là ví dụ điển
hình của sử dụng DMPA ngoài mục tiêu tránh thai.
LNG-IUS được dùng trong các điều trị cần phải đối kháng
với estrogen, nhất là tình trạng cường estrogenic tại chỗ.
adenomyosis, rong huyết do u xơ-cơ tử cung dưới niêm
mạc là các ứng dụng của LNG-IUS.
TÀI LIỆU ĐỌC THÊM
1. Obstetrics and gynecology 8th edition. Tác giả Beckmann. Hợp tác xuất bản với ACOG. Nhà xuất bản Wolters Kluwer Health 2018.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Yen & Jaffe's reproductive endocrinology, 8th edition. Tác giả Jerome F. Strauss III và Robert L. Barbieri. Nhà xuất bản Saunders Elsevier 2019.
2. World Health Organization: Medical eligibility criteria for contraceptive use. Fifth edition, 2015.
Nhận xét
Đăng nhận xét