Ultrasound in the First Trimester. A Practical Approach

 

Ultrasound in the First Trimester

INTRODUCTION
First trimester ultrasound is often done to assess pregnancy location and thus it overlaps between
an obstetric and gynecologic ultrasound examination. Accurate performance of an ultrasound
examination in the first trimester is important given its ability to confirm an intrauterine
gestation, assess viability and number of embryo(s) and accurately date a pregnancy, all of which
are critical for the course of pregnancy.
Siêu âm quí 1 thai kì thường được thực hiện nhằm mục đích xác định vị trí thai và cũng là thời
điểm giao nhau giữa siêu âm phụ khoa và siêu âm sản khoa. Việc thực hiện siêu âm thai trong 3
tháng đầu đòi hỏi sự chính xác vì nó thực sự quan trọng trong việc xác định túi thai nằm trong tử
cung, số lượng, sự sống phôi thai và đánh giá tuổi thai một cách chính xác, tất cả yếu tố này có ý
nghĩa quan trọng trong việc theo dõi thai kì.


Main objectives of the first trimester ultrasound examination are listed in Table 4.1. These
objectives may differ somewhat based upon the gestational age within the first trimester window,
be it 6 weeks, 9 weeks, or 12 weeks, but the main goals are identical. In this chapter, the
approach to the first trimester ultrasound examination will be first discussed followed by the
indications to the ultrasound examination in early gestation. 
Những mục tiêu chủ yếu của siêu âm quí 1 được liệt kê trong bảng 4.1. Những mục tiêu này có
thể thay đổi tuỳ theo tuổi thai trong 3 tháng đầu, như lúc 6 tuần, 9 tuần hay 12 tuần, nhưng
những mục tiêu chính thì giống nhau. Trong chương này, chúng tôi sẽ bàn luận về hướng tiếp
cận siêu âm 3 tháng đầu, sau đó là những chỉ định siêu âm thai trong giai đoạn sớm.


Chronologic sequence of the landmarks of the first trimester ultrasound in the normal pregnancy will be described and
ultrasound findings of pregnancy failure will be presented. The chapter will also display some of
the major fetal anomalies that can be recognized by ultrasound in the first trimester. Furthermore,
given the importance of first trimester assignment of chorionicity in multiple pregnancies, this
topic will also be addressed in this chapter.
Những mốc
siêu âm theo thứ tự thời gian trong 3 tháng đầu ở một thai kì bình thường và những dấu hiệu siêu
âm của một thai ngừng tiến triển cũng sẽ được trình bày, cũng như một số trường hợp bất thường
thai có thể phát hiện qua siêu âm 3 tháng đầu. Ngoài ra, chúng tôi sẽ đề cập đến tầm quan trọng
của việc đánh giá bánh nhau trong song thai ở quý 1 thai kì.


TABLE 4.1 Main Objectives of Ultrasound Examination in the First Trimester
- Confirmation of pregnancy
- Intrauterine localization of gestational sac
- Confirmation of viability (cardiac activity in embryo/fetus)
- Detection of signs of early pregnancy failure
- Single vs. Multiple pregnancy (define chorionicity in multiples)
- Assessment of gestational age (pregnancy dating)
- Assessment of normal embryo and gestational sac before 10 weeks
- Assessment of basic anatomy after 11 week
BẢNG 4.1 Những mục tiêu chính trong siêu âm 3 tháng đầu
- Xác định có thai.
- Sự xác định vị trí túi thai nằm trong tử cung
- Xác định sự sống của phôi thai (xác định tim thai)
- Phát hiện những dấu hiệu của thai ngưng tiến triển sớm.
- Xác định đơn thai hay đa thai (xác định số bánh nhau trong đa thai)
- Đánh giá tuổi thai.
- Đánh giá phôi thai bình thường và túi thai trước 10 tuần.
- Đánh giá giải phẫu thai cơ bản sau 11 tuần.



TRANSVAGINAL ULTRASOUND EXAMINATION IN THE FIRST TRIMESTER
There is general consensus that, with rare exceptions, ultrasound examination in the first
trimester of pregnancy should be performed transvaginally. The transvaginal transducers have
higher resolution and are positioned closer to the uterus, the gestational sac and pelvic organs,
when compared to the abdominal transducers. The closer proximity and higher resolution of the
transvaginal transducers allow for excellent anatomic details and recognition of first trimester
anatomy (Figure 4.1). When inserted gently, the transvaginal ultrasound transducer is well
tolerated by most women. Table 4.2 lists recommended steps for the performance of the
transvaginal ultrasound examination.
Ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ, nhiều tác giả đã đồng thuận rằng siêu âm qua ngã âm đạo
nên được thực hiện trong 3 tháng đầu. So với siêu âm ngã bụng, siêu âm qua ngã âm đạo có
nhiều thuận lợi và vị trí đầu dò gần với tử cung, túi thai và các cơ quan vùng chậu. Điều này cho
phép người siêu âm có thể đánh giá những chi tiết giải phẫu tốt hơn trong 3 tháng đầu (
Hình 4.1). Khi thao tác nhẹ nhàng, đa số sản phụ không gặp trở ngại với đầu dò âm đạo. Trong bảng
4.2 khuyến cáo những bước thực hiện siêu âm qua ngã âm đạo


Figure 4.1: Transvaginal ultrasound of a fetus at 12 weeks’ gestation in a
midsagittal orientation. Note the high level of resolution, which allows for clear
depiction of fetal anatomic structures (labeled).
Hình 4.1: Mặt cắt dọc giữa của một thai kì 12 tuần khi siêu âm ngã âm đạo cho
phép đánh giá những cấu trúc giải phẫu của thai rõ ràng hơn(chú thích).


TABLE 4.2 Steps for the Performance of the Transvaginal Ultrasound Examination
- The patient is informed and consented (orally) to the performance of the transvaginal
ultrasound examination
- The patient emptied her bladder and is placed in a dorsal lithotomy position or in a
supine position with the buttocks elevated by a cushion
- Cover sheet is applied to provide privacy and when possible it is recommended to have a
third person (chaperon) present in the room in addition to the patient and examiner
- Check that the transvaginal transducer has been cleaned based upon recommended
guidelines, is connected to the machine and is switched on before you start the
examination
- Apply gel on the transducer tip, cover with a single-use condom (or latex glove) and
apply gel on the outside of the condom, paying attention not to create air bubbles below
the cover
- Insert the transducer gently and angle it inferiorly (towards rectum) during insertion into
the vaginal canal as this reduces patient’s discomfort
- Speak with the patient, explain what you are doing and ask about possible discomfort
BẢNG 4.2 Những bước thực hiện siêu âm ngã âm đạo
- Trước khi làm thủ thuật, thông báo cho bệnh nhân biết và được sự chấp thuận của bệnh
nhân (bằng miệng).
- Bàng quang của bệnh nhân phải trống. Bệnh nhân nằm ở tư thế sản khoa hay tư thế
nằm ngửa 2 chân duỗi thẳng, phần mông được nâng lên bởi miếng lót đệm.
- Dùng khăn che chắn kín đáo cho bệnh nhân và nếu có thể, ngoài bệnh nhân và bác sĩ,
khuyến cáo nên chỉ có thêm một người thứ 3 trong phòng .
- Kiểm tra đầu dò sạch sẽ (theo y văn), kiểm tra sự kết nối đường truyền tín hiệu giữa đầu
dò và máy siêu âm trước khi làm thủ thuật.
- Cho chất bôi trơn vào bề mặt đầu dò, vào mặt trong và mặt ngoài của bao caboth, chú ý
không để không khí lọt vào.
- Đưa đầu dò vào ống âm đạo một cách nhẹ nhàng và về phía trước (về phía ruột già) để
làm giảm sự khó chịu cho bệnh nhân.
- Trong quá trình thực hiện, trò chuyện với bệnh nhân, giải thích những gì bạn đang làm
và hỏi cảm giác khó chịu của bệnh nhân nếu có.

The beginning of the examination should be performed in an overview without magnification,
trying to visualize the uterus with its position, size, shape, content, as well as the neighboring
organs, such as the left and right adnexa, the urinary bladder and the cul-de-sac. Following this
overview, the region of interest, e.g. the pregnancy, should be magnified to get the best view and
detailed assessment.
Khi bắt đầu vào thực hiện, nên nhìn một cách tổng thể, quan sát tử cung về vị trí, kích thước,
hình dáng, cấu trúc của nó, cũng như các cơ quan lân cận, như hai phần phụ, bàng quang và túi
cùng. Sau đó, những vùng cần khảo sát, ví dụ như thai, nên được phóng to nhằm đạt được hình
ảnh rõ nhất và có thể đánh giá một cách chi tiết.


INDICATIONS FOR THE ULTRASOUND EXAMINATION IN THE FIRST
TRIMESTER
In many parts of the world, first trimester ultrasound examination is often indication-driven (1)
unlike the “routine” second trimester ultrasound examination that is commonly performed for
fetal anatomic assessment. Indications for the first trimester ultrasound examination vary but
typically are related to maternal symptoms. Table 4.3 lists common indications for an ultrasound
examination in the first trimester of pregnancy.
Nhiều nơi trên thế giới, siêu âm 3 tháng đầu thường không được chỉ định thường qui (1) như đối
với 3 tháng giữa để khảo sát hình thái thai nhi. Những chỉ định siêu âm 3 tháng đầu rất khác nhau
nhưng nhìn chung có liên quan đến triệu chứng của người mẹ.
Bảng 4.3 liệt kê những chỉ định
thường thấy cho siêu âm 3 tháng đầu.


TABLE 4.3 Common Indications for Ultrasound in the First Trimester of Pregnancy
- Amenorrhea (patient does not know she is pregnant)
- Pelvic pain
- Vaginal bleeding
- Unknown menstrual dates
- Subjective feeling of pregnancy
- Uterus greater or smaller than dates on clinical evaluation
- Pregnancy test positive or increased Human Chorionic Gonadotropin (hCG) values
- Nuchal translucency measurement


BẢNG 4.3 Những chỉ định thường thấy cho siêu âm 3 tháng đầu.
- Mất kinh (bệnh nhân không biết có thai)
- Đau vùng chậu
- Xuất huyết âm đạo
- Bệnh nhân quên ngày kinh.
- Cảm giác chủ quan của thai phụ.
- Tử cung lớn hơn hay nhỏ hơn so với ngày của đánh giá lâm sàng.
- Xét nghiệm giá trị của hCG tăng hay dương tính.
- Đo độ mờ da gáy.

SONOGRAPHIC LANDMARKS IN THE FIRST TRIMESTER
The normal intrauterine pregnancy undergoes significant and rapid change in early gestation,
from a collection of undifferentiated cells to a fetus within an amniotic sac connected to a
placenta and a yolk sac. All this change occurs within a span of 3-4 weeks. This significant
progression can be seen on ultrasound from a chorionic sac: the first sonographic evidence of
pregnancy, to the embryo with cardiac activity. Identifying the ultrasound landmarks of a normal
pregnancy in the first trimester, and understanding their normal progression, helps to confirm
pregnancy and assist in the diagnosis of pregnancy failure.
Một thai bình thường trong tử cung trải qua một quá trình biến đổi quan trọng và nhanh chóng
trong giai đoạn sớm, từ một tập hợp các tế bào không biệt hoá thành một phôi thai nằm trong túi
ối kết nối với bánh nhau và túi noãn hoàng. Tất cả sự thay đổi này xảy ra trong khoảng 3-4 tuần.
Điều này có thể được nhìn thấy trên siêu âm: khởi đầu là túi màng đệm, bằng chứng đầu tiên của
thai trên siêu âm, đến phôi thai với hoạt động của tim. Nhận diện được các đặc điểm của siêu âm
trong 3 tháng đầu thai kì và hiểu được tiến trình bình thường của thai sẽ giúp chẩn đoán xác định
thai và chẩn đoán các trường hợp các thai ngừng tiến triển.


The gestational sac, also referred to as the chorionic cavity, is the first sonographic evidence of
pregnancy. It is first located slightly paracentrically in the decidua and referred to as the
“intradecidual sac sign“, as the gestational sac is buried in the endometrium (Figure 4.2). The
gestational sac should not be confused with a fluid accumulation (blood) between the decidual
layers (Figure 4.3 A and B). This fluid collection in the decidua has been referred to as
“pseudosac”, especially in the presence of an ectopic pregnancy. The gestational sac on
transvaginal ultrasound appears a few days after the menstrual period is missed and is first seen
at 4 to 4.5 weeks from the first day of the last menstrual period (LMP). 
Túi thai, hay còn gọi là khoang màng đệm, là bằng chứng đầu tiên của thai trên siêu âm. Ban
đầu, túi thai nằm hơi lệch tâm trong màng rụng, hay còn gọi là "dấu hiệu túi thai trong màng
rụng" (Intradecidual sac sign), túi thai nằm vùi vào trong niêm mạc (
Hình 4.2). Không nên lầm
lẫn túi thai với ứ dịch (máu) nằm giữa hai lớp màng rụng (
Hình 4.3 A và B). Túi dịch giữa hai
lớp màng rụng này được gọi là “Túi thai giả”, gặp trong thai ngoài tử cung. Túi thai nhìn thấy
trên siêu âm ngã âm đạo vài ngày sau khi trễ kinh, khoảng 4 đến 4.5 tuần tính từ ngày đầu của kì
kinh cuối.
 
The first appearance of a
gestational sac on ultrasound may be difficult to visualize but it has a rapid growth at about 1mm
per day. When the gestational sac has a mean diameter of 2 - 4mm, its borders appear echogenic,
which makes its demonstration easy (Figure 4.4). The echogenic ring of the gestational sac is an
important ultrasound sign, which helps to differentiate it from an intrauterine fluid or blood
collection. 
Hình ảnh của túi thai trên siêu âm giai đoạn sớm có thể khó nhìn thấy nhưng phát triển
khá nhanh khoảng 1mm mỗi ngày. Khi túi thai có đường kính trung bình 2 – 4 mm, bờ của nó có
phản âm dày, giúp cho sự chẩn đoán dễ dàng hơn (
Hình 4.4). Vòng phản âm dày của túi thai là
một dấu hiệu siêu âm quan trọng, giúp phân biệt túi thai thật với túi thai giả, chính là sự tụ dịch
hay máu trong lòng tử cung.
 
The shape of the gestational sac is first circular but with the appearance of the yolk
sac and the embryo it becomes more ellipsoid (Figure 4.5). Size, growth and shape of the
gestational sac can vary and the mean sac diameter (MSD) is calculated as the arithmetic mean
of its greatest sagittal, transverse and coronal planes. A MSD cutoff of ≥25 mm with no embryo
is diagnostic of failed pregnancy (Figure 4.6). This would yield a specificity and positive
predictive value at (or as close as can be determined) to 100% (2). When the MSD is between 16
and 24 mm, the absence of an embryo is suspicious, though not diagnostic, for failed pregnancy
(2).
Ban đầu túi thai có dạng hình tròn nhưng với sự xuất hiện của túi
noãn hoàng và phôi thai, túi thành trở thành dạng elip (
Hình 4.5). Kích thước, hình dáng của túi
thai có thể thay đổi và đường kính trung bình của túi thai (MSD: mean sac diameter) được tính
bằng trung bình của ba đường kính lớn nhất trên mặt cắt dọc, ngang và đứng ngang. Khi MSD
≥25 mm mà không có sự hiện diện của phôi thai được chẩn đoán là thai ngừng tiến triển (
Hình
4.6).
Ngưỡng Cut-off này có độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương là 100% (2). Khi MSD ở
khoảng 16 mm – 24 mm, không thấy phôi thai thì chỉ nên nghi ngờ chứ không nên đưa ra chẩn
đoán chắc chắn thai ngừng phát triển (2).





Figure 4.2: Mid-sagittal plane of the uterus showing a gestational sac at 5 weeks’ gestation
(labeled). Note the paracentric location of this gestational sac within the decidua. The uterine
fundus is labeled for orientation.
Hình 4.2: Mặt cắt dọc giữa của tử cung cho thấy túi thai 4.5 tuần (mũi tên). Lưu ý vòng phản âm
dày bao quanh túi thai. Vòng phản âm dày này giúp phân biệt túi thai thật và tuí thai giả.




Figure 4.4: Sagittal plane of a uterus with a gestational sac at 4.5 weeks’ gestation. Note the echogenic
borders (arrows) of the gestational sac. The echogenic borders (ring) of the gestational sac help to
differentiate it from an intrauterine fluid or blood collection.
Hình 4.4: Mặt cắt dọc của tử cung với túi thai 4.5 tuần. Chú ý viền bờ dày sang (mũi tên) của túi thai. Bờ dày sáng (dạng vòng nhẫn) của túi thai giúp chẩn đoán phân biệt với tụ dịch hay máu trong lòng tử cung.




Figure 4.3 A & B: Mid-sagittal (A) and transverse (B) planes of two uteri showing fluid accumulation
(asterisk) between the decidual layers (pseudosacs). This finding should not be confused with an
intrauterine gestational sac. See text for details.
Hình 4.3 A & B: Mặc cắt dọc giữa (A) và mặt cắt ngang (B) của vùng ứ dịch trong lòng tử cung (dấu sao) với vòng sáng (túi thai giả). Không nên nhầm lẫn dấu hiệu này với túi thai thật trong long tử cung.



Figure 4.5: Mid-sagittal plane of a uterus with a gestational sac at 6 weeks’
gestation. Note the presence of a yolk sac (labeled) and a small embryo
(labeled). The shape of the gestational sac is more ellipsoid than circular.
Hình 4.5: Mặt cắt dọc giữa của tử cung có túi thai 6 tuần. Chú ý sự hiện diện
của túi noãn hoàng (mũi tên) và một phôi thai nhỏ (mũi tên). Hình dạng của
túi thai dạng ellip hơn là dạng tròn.




Figure 4.6: A large gestational sac (MSD > 25 mm) with no embryo seen. This
is diagnostic of a failed pregnancy.
Hình 4.6: Một túi thai lớn (MSD > 25 mm), không nhìn thấy phôi thai. Chẩn
đoán là thai ngừng tiến triển.


Yolk Sac   ( Túi noãn hoàng)
The yolk sac is seen at 5 weeks gestation (menstrual age) on transvaginal ultrasound, as a small
ring within the gestational sac with highly echogenic borders (Figure 4.7). It is visible at 5
weeks + 5 days gestation. It has a diameter of around 2mm at 6 weeks and increases slowly to
around 6mm at 12 weeks. The first detection of the embryo by ultrasound is noted in close
proximity to the free wall of the yolk sac, since the yolk sac is connected to the embryo by the
vitelline duct (Figure 4.8). A small yolk sac with a diameter less than 3mm between 6-10 weeks
or a diameter of more than 7mm before 9 weeks are suspicious for an abnormal pregnancy and
thus this observation requires a follow-up ultrasound examination to assess pregnancy viability
(Figure 4.9 A and B).
Túi noãn hoàng được nhìn thấy lúc thai 5 tuần (theo ngày kinh cuối) trên siêu âm ngã âm đạo, là
một vòng nhỏ nằm trong túi thai với viền bờ dày sáng (
Hình 4.7). Túi noãn hoàng thấy rõ lúc
thai 5 tuần + 5 ngày, đường kính khoảng 2 mm lúc thai 6 tuần và tăng chậm đến 6 mm lúc thai
12 tuần. Phôi thai được nhìn thấy đầu tiên là nằm gần với thành tự do của túi noãn hoàng và kết
nối với túi noãn hoàng qua ống vitelline (
Hình 4.8). Túi noãn hoàng có đường kính < 3mm khi
thai 6-10 tuần hoặc đường kính > 7 mm lúc thai < 9 tuần nên nghi ngờ đến một thai kì bất
thường, cần phải theo dõi bằng siêu âm để đánh giá tình trạng thai (
Hình 4.9 A và B).




Figure 4.7: A mid-sagittal plane of a uterus with a gestational sac at 5.5 weeks’ gestation. Note the
yolk sac seen within the gestational sac (labeled) with highly echogenic borders.
Hình 4.7: Mặt cắt dọc giữa của tử cung có túi thai 5.5 tuần. Chú ý túi noãn hoàng nằm trong túi thai
(mũi tên) với đường bờ echo dày sáng.




Figure 4.8: Gestational sac at 6 weeks. Note the location of the embryo (labeled) in
close proximity to the free wall of the yolk sac (labeled). The embryo is attached to
the yolk sac by the vitelline duct (not seen). The yolk sac and the embryo give the
appearance of a diamond engagement ring at this gestation.
Hình 4.8: Túi thai 6 tuần. Chú ý vị trí của phôi (mũi tên) nằm gần sát thành tự do của
túi noãn hoàng (mũi tên). Phôi thai bị dính vào túi noãn hoàng thông qua ống
vitelline (không nhìn thấy được). Túi noãn hoàng và phôi thai có hình ảnh giống như
chiếc nhẫn có gắn hột kim cương.




Figure 4.9 A & B: Figures 4.9 A and B show 2 gestational sacs with abnormal size yolk sacs: small in
A - (solid arrow) and large in B (broken arrow). Abnormal size of yolk sacs is correlated with a
suspicion for an abnormal pregnancy.
Hình 4.9 A & B: Hình 4.9 A và B cho thấy 2 túi thai có kích thước túi noãn hoàng bất thường: túi
nhỏ trong hình A (mũi tên liên tục) và túi lớn trong hình B (mũi tên đứt quãng). Kích thước bất
thường của túi noãn hoàng nghi ngờ tới một thai kì bất thường.



Amnion (Túi ối)
The amniotic sac develops as a thin echogenic structure surrounding the embryo (Figure 4.10).
The amniotic sac appears following the appearance of the yolk sac and just before the
appearance of the embryo. Whereas the gestational sac shows variations in size and shape, the
growth of the amniotic sac is closely related to that of the embryo between 6 and 10 weeks.
Túi ối là một đường viền echo dày bao quanh phôi (hình 4.10). Túi ối xuất hiện sau túi noãn
hoàng và trước khi phôi thai được nhìn thấy. Trong khi túi thai có nhiều biến đổi về hình dạng và
kích thước, thì sự phát triển của túi ối liên lại quan mật thiết với sự phát triển của phôi từ 6 tuần
đến 10 tuần.


Embryo (phôi)
The embryo is first seen on transvaginal ultrasound as a focal thickening on top of the yolk sac,
giving the appearance of a “diamond engagement ring” (Figure 4.8), at around the 5th menstrual
week. First cardiac activity should be seen at 6 to 6.5 weeks. The embryo can be recognized by
high resolution transvaginal ultrasound at the 2-3mm length size (Figure 4.11), but cardiac
activity can be consistently seen when the embryo reaches a 5-7 mm in length or greater. 
Phôi thai được nhìn thấy lần đầu qua siêu âm ngã âm đạo là một điểm sự dày lên ở đỉnh túi noãn
hoàng, tương tự như hình ảnh “nhẫn kim cương” (
hình 4.8), ở thời điểm khoảng 5 tuần. Hoạt
động tim thai đầu tiên nhìn thấy lúc thai 6 đến 6.5 tuần. Phôi thai kích thước 2-3 mm có thể nhìn
thấy bằng đầu dò siêu âm ngã âm đạo có độ phân giải cao (
Hình 4.11), nhưng hoạt động tim thai
chỉ chắc chắn khi chiều dài phôi ≥ 5 -7 mm.


Cardiac rhythm increases rapidly in early gestation being around 100-115 before 6 weeks, rising to 145-
170 at 8 weeks and dropping down to a plateau of 137 to 144 after 9 weeks gestation. The size of
the embryo increases rapidly by approximately 1mm per day in length. The measurement of the
length of the embryo, referred to as the Crown-Rump-Length (CRL), is reported in millimeters.
Nhịp tim thai tăng nhanh trong giai đoạn sớm của
thai kì từ khoảng 100 – 115 nhịp/phút thời điểm < 6 tuần, đến 145 – 170 nhịp/phút lúc 8 tuần và
giảm xuống 137 - 144 nhịp/phút từ 9 tuần trở đi. Chiều dài phôi tăng nhanh khoảng 1mm mỗi
ngày. Đo chiều dài phôi thai, chiều dài đầu-mông (CRL: the Crown-Rump-Length), đươc tính
bằng mm. 



Figure 4.10: Gestational sac at 7 weeks gestation. The amniotic sac (labeled) is
seen as a thin reflective circular membrane. The yolk sac and vitelline duct are
seen as extra-amniotic structures (labeled).

It is the longest distance in a straight line from the cranial to the caudal end of the body and is the
most accurate assessment for pregnancy dating. Recent studies suggest that it is prudent to use a
cutoff of ≥7 mm (rather than ≥5 mm) for CRL with no cardiac activity for diagnosing failed
pregnancy. This would yield a specificity and positive predictive value at (or as close as can be
determined) to 100%. Since cardiac activity is usually visible as soon as an embryo is detectable,
the finding of no heartbeat with a CRL <7 mm is suspicious, though not diagnostic, for failed
pregnancy (2, 3).
Đó là khoảng cách dài nhất theo đường thẳng từ đầu thai đến phần đuôi tận cùng của thai và đây cũng là sự đánh giá tuổi thai chính xác nhất. Những nghiên cứu gần đây khuyến cáo
sử dụng ngưỡng cut-off CRL ≥ 7 mm (thay vì ≥ 5 mm) mà không có hoạt động tim thai để chẩn
đoán thai ngừng tiến triển. Dấu hiệu này có độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương là 100% (gần
như có thể xác định). Vì chúng ta thường nhìn thấy hoạt động tim thai thường thấy ngay khi phát
hiện phôi thai, việc không có nhịp tim khi CRL < 7 mm thì chỉ nên nghi ngờ, không nên đưa ra
chẩn đoán(2, 3).

Note that the embryo develops within the amniotic cavity and is referred to as intraamniotic
whereas the yolk sac is outside of the amniotic cavity and is referred to as extraamniotic (Figure
4-10). The fluid that the yolk sac in embedded into is the extraembryonic coelom.
Chú ý rằng phôi thai phát triển ở trong khoang ối (intraamniotic), trong khi túi noãn hoàng nằm
ngoài khoang ối (extraamniotic) (
hình 4-10). Dịch chứa trong túi noãn hoàng là khoang ngoài
phôi


The appearance of the embryo on ultrasound changes from 6 weeks to 12 weeks gestation. At 6
weeks gestation, the embryo appears as a thin cylinder with no discernible body parts “the grain
of rice appearance” (Figure 4.12). As gestational age advances, the embryo develops body
curvature and clear delineation on ultrasound of a head, chest, abdomen and extremities “the
gummy-bear appearance” (Figure 4.13, 4.14 and 4.1). Close observation of anatomic details on
transvaginal ultrasound at or beyond 12 weeks gestation may allow for the diagnosis of major
fetal malformations. This requires extensive expertise and is beyond the scope of this book. We
provide a table of major fetal malformations (Table 4.4) that can be diagnosed at 12 weeks or
beyond. Figures 4.15 – 4.18 show examples of fetuses with major malformations at or before 12
weeks of gestation.
Sự xuất hiện của phôi thai trên siêu âm thay đổi từ 6 đến 12 tuần. Lúc thai 6 tuần, phôi thai có
dạng hình trụ mỏng và chưa thấy các phần cơ thể, “sự xuất hiện của hạt gạo” (
Hình 4.12). Khi
tuổi thai tăng lên, phôi thai phát triển những đường cong cơ thể và hình thành rõ ràng trên siêu
âm những phần như đầu, ngực, bụng và tứ chi: “sự xuất hiện của gấu Gummy”(
Hình 4.13, 4.14
và 4.1
). Quan sát kỹ những chi tiết giải phẫu qua siêu âm ngã âm đạo ở thai 12 tuần cho phép
chẩn đoán những bất thường lớn. Điều này đòi hỏi người có trình độ chuyên môn cao và có lẽ
vượt qua phạm vi của cuốn sách này. Chúng tôi cung cấp bảng bất thường thai chính (
Bảng 4.4)
có thể được chẩn đoán từ thời điểm 12 tuần trở đi.
Hình 4.15 – 4.18 cho thấy những ví dụ bất
thường thai trước hay tại thời điểm thai 12 tuần




Figure 4.11: Transvaginal ultrasound of a gestational sac with an embryo (labeled)
measuring 1.8 mm in size. Note the proximal location of the yolk sac (not labeled) to
the embryo.
Hình 4.11: Siêu âm ngã âm đạo túi thai có phôi thai (chú thích) dài 1,8 mm. Ghi nhận
vị trí phôi gần túi noãn hoàng (không chú thích).




Figure 4.12: Gestational sac at 6 weeks with an embryo measuring 5.1 mm in CrownRump Length (CRL). Note the straight shape of the embryo, resembling a grain of rice.
Hình 4.12: Túi thai lúc 6 tuần có phôi thai , CRL= 5.1 mm. Ghi nhận hình dạng phôi
thai thẳng, giống hạt gạo.




Figure 4.13: Gestational sac with an embryo at 8 weeks.
Note the appearance of body curvature of the embryo
(labeled), resembling a gummy bear in shape. The yolk
sac is also labeled.
Hình 4.13: Túi thai có phôi thai 8 tuần. Ghi nhận sự xuất
hiện những đường cong cơ thể của phôi thai (chú thích),
giống hình dạng gấu Gummy. Túi noãn hoàng cũng được
chú thích




Figure 4.14: Gestational sac with an embryo at 10
weeks gestation. Note the clear delineation of a
head, chest, abdomen and extremities.
CRL=Crown-Rump Length.
Hình 4.14: Túi thai có phôi thai 10 tuần. Ghi nhận
sự phác hoạ rõ ràng phần đầu, ngực, bụng và tứ
chi.CRL (Crown-Rump Length): chiều dài đầu
mông.


TABLE 4.4 Major Fetal Malformation that can be Diagnosed in Early Gestation
- Anencephaly-exencephaly sequence
- Alobar and semilobar holoprosencephaly
- Large encephalocele
- Pentallogy of Cantrell (severe thoraco-abdominal wall defect with ectopia cordis
and exomphalos)
- Gastroschisis
- Large omphalocele (watch-out for possible physiologic herniation of the bowel)
- Limb-body-wall complex (also known as body-stalk anomaly)
- Cystic hygroma
- Gross limb defects
- Frank hydrops

BẢNG 4.4 Những bất thường có thể chẩn đoán được trong giai đoạn sớm của
thai kì.
- Thai vô sọ - lồi não
- Holoprosencephaly thể Alobar và semilobar
- Thoát vĩ nào lớn
- Ngũ chứng Cantrell (bất thường khiếm khuyết thành bụng-ngực nghiêm trọng
với thoát vị rốn và tim lạc chỗ)
- Hở thành bụng
- Thoát vị rốn lớn ( chú ý trường hợp thoát vị chứa ruột có thể là sinh lý)
- Bất thường phức hợp cơ thể (Limb-body-wall complex hay body-stalk anomaly)
- Cystic hygroma
- Bất thường chi lớn
- Phù thai Frank




Figure 4.15: Mid-sagittal view of a fetus at 11 weeks gestation with anencephaly.
Note the abnormally shaped head with absence of cranium (arrow).
Hình 4.15: Mặt cắt dọc giữa của thai 11 tuần bị chứng thai vô sọ. Chú ý hình dạng
đầu thai bị mất hộp sọ (mũi tên).




Figure 4.16: Coronal view of a fetus at 10 weeks gestation with cystic
hygroma. Note the generalized subcutaneous swelling (arrows). CRL =
Crown-Rump Length.
Hình 4.16: Mặt cắt trán của thai 10 tuần có nang bạch huyết cystic hygroma.
Chú ý chỗ sưng phồng lên dưới da (mũi tên). CRL = Crown-Rump Length.




Figure 4.17: A fetus with Pentalogy of Cantrell at 12 weeks gestation. Note the presence of
a large abdominal and chest defect (arrow), with a protruding omphalocele.
Hình 4.17: Thai mắc ngũ chứng Cantrell lúc 12 tuần. Chú ý khiếm khuyết lồng ngực và
thành bụng (mũi tên), với khối thoát vị rốn lồi ra.


MULTIPLE GESTATION AND CHORIONICITY
Chapter 7 describes in details ultrasound in multiple gestations. We will present here the role of
the first trimester ultrasound in assigning chorionicity and amnionicity. Twins and higher order
multiple gestations are easily diagnosed in early gestation. The first trimester is the most
optimum time for the diagnosis of multiple gestations and for the assessment of chorionicity. In
multiple gestations, first trimester ultrasound has also the essential role of assessing the type of
chorionicity and recording it in the written ultrasound report. As pregnancy advances, it becomes
more difficult to be certain of the chorionicity of multiple gestations.
Chương 7 sẽ mô tả chi tiết về siêu âm trong trường hợp đa thai. Trong chương này, chúng tôi sẽ
đề cập đến vai trò của siêu âm 3 tháng đầu trong việc đánh giá màng ối và màng đệm. Song thai
và đa thai được chẩn đoán dễ dàng hơn trong giai đoạn sớm. 3 tháng đầu là thời điểm hoàn hảo
nhất để chẩn đoán đa thai và đánh giá màng đệm. Trong đa thai, siêu âm 3 tháng đầu đóng vai trò
thiết yếu để đánh giá loại màng đệm và phải được ghi nhận trong kết quả siêu âm. Khi thai lớn,
việc xác định số màng đệm trong đa thai trở nên rất khó khăn.


We will focus on twins in this section as higher order multiple pregnancies is beyond the scope
of this book and applies the same diagnostic principles as twins. The presence of a higher older
multiple pregnancy should necessitate referral to an advanced imaging center. Twins can share
one placenta and are thus referred to as monochorionic (MC). Twins can have two separate
placentas and are then called dichorionic (DC). Dichorionic twins are two independent
pregnancies within one uterus and with very rare exceptions have no shared placental vascular
network between the twins. All dichorionic placentas, by definition, have 2 amniotic sacs and
thus are diamniotic also. Dizygotic twins always have dichorionic placentation. Their placentas
may be separated or intimately fused. Dizygotic twins are more common than monozygotic
twins, with a ratio of 3 to 1.
Trong phần này, chúng tôi sẽ tập trung vào song thai, trường hợp nhiều thai hơn vượt qua phạm
vi cuốn sách này nhưng những qui tắc chẩn đoán thì tương tự song thai. Trường hợp đa thai như
vậy nên được đưa đến trung tâm chẩn đoán hình ảnh tuyến trên. Song thai có thể sử dụng chung
1 bánh nhau và được gọi là một nhau/một màng đệm (monochorionic (MC)). Song thai có thể có
2 bánh nhau riêng biệt và gọi là hai nhau/hai màng đệm (dichorionic (DC)). Song thai 2 bánh
nhau được xem như 2 thai riêng biệt độc lập trong một tử cung và rất hiếm có thông nối mạch
máu trong bánh nhau giữa 2 thai. Tất cả song thai 2 bánh nhau, theo định nghĩa, sẽ có 2 túi ối
(diamniotic). Song thai 2 hợp tử luôn luôn có 2 bánh nhau. Bánh nhau của chúng có thể chia ra
hoặc dính nhau. Song thai 2 hợp tử phổ biến hơn song thai 1 hợp tử, với tỉ lệ 3:1.




Figure 4.18: Gastroschisis (labeled) in a fetus at 12 weeks gestation
demonstrated in a transverse view of the abdomen. Note the cord
insertion (labeled) to the left of the defect.
Hình 4.18: Hở thành bụng (chú thích) ở thai 12 tuần ở mặt cắt ngang
bụng. Chú ý nơi dây rốn cắm vào nằm bên trái chỗ khiếm khuyết (chú
thích)



Most monozygotic twins have a placenta that is monochorionic – diamniotic (~75 %), some
monozygotic twins have a dichorionic – diamniotic placenta (~25 %), and rarely, the placenta
can be monochorionic- monoamniotic (~1%). Conjoined twins are monoamniotic and are less
common still. These three entities of twinning are best diagnosed in early gestation after 8 weeks
when yolk sac(s) are present and further management and follow up of gestation depends highly
on the twin subgroup detected:
Đa số song thai đồng hợp tử có 1 bánh nhau và hai túi ối (~75 %), một số trường hợp là hai nhau
hai túi ối (~25 %), và hiếm hơn một màng đệm-một túi ối (~1%). Song thai dính là loại một túi
ối và ít phổ biến. Ba thể song thai này chẩn đoán tốt nhất trong giai đoạn sớm sau 8 tuần khi các
túi noãn hoàng đã xuất hiện và việc quản lý theo dõi thai kì sau đó phụ thuộc nhiều vào những
nhóm nhỏ sau:

1) In dichorionic-diamniotic twins there are two gestational sacs with thick dividing
membrane that includes chorionic tissue, separating both gestational sacs. The chorionic
tissue separating the gestational sacs is referred to as “delta, lambda or twin-peak“ sign
and is diagnostic of a dichorionic gestation (Figure 4.19). In each sac we can find a yolk
sac and an embryo.
1) Trong song thai 2 nhau - 2 ối có 2 túi thai, màng ngăn dày bao gồm mô màng đệm, chia
ra 2 túi thai riêng. Mô màng đệm chia túi thai tạo nên dấu hiệu “delta, lambda hay twinpeak”, và chẩn đoán 2 túi ối (
Hình 4.19). Trong mỗi túi thai, chúng ta sẽ tìm thấy 1 túi
noãn hoàng và 1 phôi thai.

2) In monochorionic- diamniotic twins, there is one gestational sac but each embryo has its
own amniotic sac and yolk sac (Figure 4.20). The dividing membrane that separates the
amniotic cavities is thin and inserts in a characteristic “T” configuration into the shared
placenta (Figure 4.21).
2) Trong song thai 1 nhau - 2 ối, có 1 túi thai nhưng mỗi phôi thai có riêng 1 túi ối và túi
noãn hoàng (
Hình 4.20). Màng ngăn cách chia khoang ối thì mỏng và có đặc điểm hình
chữ “T” tại bánh nhau (
Hình 4.21).

3) In monochorionic-monoamniotic twins, there is one gestational sac, one amniotic sac,
one yolk sac but two embryos. No separating/dividing membrane is noted (Figure 4.22).
3) Trong song thai 1 nhau - 1 ối, có 1 túi thai, 1 túi ối, 1 túi noãn hoàng nhưng có 2 phôi
thai. Không có ghi nhận sự phân chia màng ngăn giữa 2 thai. (
Hình 4.22).

4) Conjoined twins will have the same placental characteristics as a monochorionicmonoamniotic placenta with conjoined embryos (Figure 4.23). Note that the term
“conjoined“ is a misnomer as the twin has actually failed to separate completely instead
of being conjoined. The terminology however is well accepted.
Further detailed discussion of multiple gestations is presented in Chapter 7.
4) Song thai dính có những đặc điểm bánh nhau giống như 1 nhau-1 ối nhưng phôi thai bị
dính nhau. (
Hình 4.23). Chú ý rằng thuật ngữ “dính” là 1 cách dùng không đúng bởi vì
thật sự về mặt cơ chế, đây là sự thất bại trong việc phân chia giữa hai thai. Tuy nhiên,
thuật ngữ này vẫn có thể được chấp nhận.
Việc bàn luận chi tiết hơn về đa thai sẽ có trong chương 7.




Figure 4.19: Dichorionic-diamniotic twin pregnancy. Note the thick dividing membrane separating
both gestational sacs (A and B). Chorionic tissue (asterisk) is present at the attachment of the dividing
membrane known as “delta or lamda“ sign.
Hình 4.19: Song thai 2 nhau-2 ối. Chú ý màng ngăn dày giữa hai thai (A và B). Mô màng đệm (dấu sao)
hiện diện ở nơi dính của màng ngăn như dấu “delta hay lamda“ .



Figure 4.21: Monochorionic-Diamniotic twins. Note a thin dividing membrane that
separates the amniotic cavities (A and B) and inserts in a characteristic “T”
configuration (asterisk) into the shared placenta.
Hình 4.21: Song thai 1 nhau- 2 ối. Chú ý màng ngăn mỏng phân chia 2 khoang ối (A
và B) và nơi cắm bánh nhau vào có dấu chữ “T”.




Figure 4.20: Monochorionic- diamniotic twins (A and B) at 8
weeks gestation. Note the presence of 2 yolk sacs (arrows). A
thin separating membrane is not visible in this image.
Hình 4.20: Song thai 1 nhau-2 ối (A và B) lúc 8 tuần. Chú ý sự
hiện diện của 2 túi noãn hoàng (mũi tên) và màng ngăn mỏng
không thể nhìn thấy được trong hình này.




Figure 4.22: Monochorionic- monoamniotic twins (A and B). Note the
presence of a single amniotic sac (labeled).
Hình 4.22: Song thai 1 nhau – 1 ối (A và B). Chú ý chỉ có 1 túi ối duy nhất
(chú thích).




Figure 4.23 A & B: Conjoined twins at 12 weeks gestation on 2D (A) and 3D (B) ultrasound. Note
that the twins are joined at the chest and abdomen. More detail on conjoined twins is presented
in chapter 7.
Hình 4.23 A & B: Song thai dính lúc 12 tuần trên siêu âm 2D (A) và 3D (B). Chú ý song thai bị dính
ở phần ngực và bụng. Song thai dính được mô tả chi tiết hơn ở chương 7.


PREGNANCY DATING IN THE FIRST TRIMETESTER
One of the most important aspects of obstetric ultrasound in the 1st trimester is dating of
pregnancy; this is accomplished by performing few simple biometric measurements: 1) the
gestational sac diameter, when no embryo is seen; 2) the length of the embryo, or Crown-Rump
Length (CRL); 3) in the late 1st trimester (12-13 weeks), the Biparietal Diameter (BPD). The
obtained values are to be compared with established reference ranges to provide an accurate
dating. With an accurate ultrasound-derived gestational age in the first and second trimester of
pregnancy, ultrasound can reliably date a pregnancy with unknown dates and establish an
estimated date of delivery with accuracy.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất khi siêu âm 3 tháng đầu là xác định tuổi thai. Tuổi
thai được tính bằng cách đo các chỉ số sinh học: 1) Đường kính túi thai khi chưa thấy phôi thai;
2)Chiều dài phôi thai hay chiều dài đầu mông (CRL); 3) Cuối quý 1 (12-13 tuần), đo đường kính
lưỡng đỉnh (Biparietal Diameter (BPD)). Những giá trị đó được đối chiếu với bảng tham khảo
chuẩn để đưa ra tuổi thai chính xác. Với việc tính được tuổi thai chính xác trong 3 tháng đầu và 3
tháng giữa, siêu âm là công cụ đáng tin cậy khi sản phụ không nhớ rõ ngày kinh cuối và đưa ra
chính xác ngày dự sanh.


In clinical medicine the age of an embryo or a fetus is expressed in “weeks of gestation“ and not
in months and these weeks are calculated from the first day of the last menstrual period (LMP),
which corresponds to 2 additional weeks from the date of conception. Gestational age is
therefore calculated from the first day of the last menstrual period (LMP) and roughly
corresponds to the dates of conception plus about 14 days. An easy estimation of the date of
delivery is the Naegle’s rule, which is the first day of the LMP + 7 days and minus 3 months (use
the next calendar year). In general most ultrasound equipment has an integrated calculator, which
calculates the estimated date of delivery as the LMP is entered. Table 4.5 lists some facts about
gestational dating in the first trimester.
Trên lâm sàng, tuổi thai được biểu thị bằng “tuần của thai kì” và không tính theo tháng, tuần tuổi
thai được tính dựa vào ngày đầu tiên của kì kinh cuối (LMP, kinh cuối) tương ứng với ngày thụ
thai cộng thêm 2 tuần. Một cách tính tuổi thai đơn giản hơn là sử dụng công thức của Naegle, lấy
ngày đầu của kinh cuối cộng 7 ngày và trừ đi 3 tháng (dùng lịch của năm sau). Nói chung, hầu
hết các máy siêu âm đều có công cụ để tính toán, trong đó có tính ngày dự sanh khi thêm vào
kinh cuối.
Bảng4.5 liệt kê vài yếu tố về tính tuổi thai trong 3 tháng đầu.


In estimating gestational age by ultrasound, it is important to remember these critical points:
- Once an established date of delivery is assigned to a pregnancy following an ultrasound
examination, irrespective whether the assigned established dates were those by
ultrasound or by menstrual dates, these dates should not be changed during pregnancy.
- If a patient reports no menstrual dates, ultrasound in the first or second trimester should
establish the estimated date of delivery.
- If the ultrasound biometric measurements vary from the menstrual dates by more than 5-7
days in the first trimester, than ultrasound should be used to establish the date of delivery
(1).
- Ultrasound dating of pregnancy is most accurate in the first trimester.
Trong việc tính tuổi thai bằng siêu âm, điều quan trọng là phải nhớ những điểm giới hạn sau:
- Khi xác định ngày dự sanh cho một lần siêu âm, cho dù ngày đó dựa vào kinh chót hay
siêu âm, thì ngày dự sanh này cũng không nên thay đổi trong suốt thai kì.
- Nếu bệnh nhân quên ngày kinh cuối, nên dùng siêu âm 3 tháng đầu để tính ngày dự sanh.
- Nếu các số đo sinh học trên siêu âm có khác biệt so với ngày kinh cuối từ 5-7 ngày trong
3 tháng đầu, thì nên dùng siêu âm để tính ngày dự sanh (1).
- Tuổi thai theo siêu âm 3 tháng đầu là chính xác nhất.

TABLE 4.5 Facts about Gestational Dating in the First Trimester
- Gestational age is calculated from date of onset of the last
menstrual period (LMP) and not from time of conception
- Date of delivery = first day of LMP + 280 days
- Ultrasound equipment provide a calculator of gestational
age
- Measuring the embryo or the fetus or other structures
before 14 weeks is the most reliable way to estimate
gestational age by ultrasound

BẢNG4.5 Những yếu tố liên quan tính tuổi thai trong 3 tháng đầu
- Tuổi thai được tính dựa vào ngày đầu của kì kinh cuối
(LMP), không phải từ thời điểm thụ thai.
- Ngày sanh= ngày đầu kì kinh cuối (LMP) + 280 ngày
- Siêu âm cho cách tính tuổi thai
- Đo đạc phôi hay thai hay cấu trúc khác trước 14 tuần là
cách tin cậy nhất để tính toán tuổi thai theo siêu âm.

BIOMETRIC MEASUREMENTS IN THE FIRST TRIMESTER
Biometric measurements for dating in the first trimester of pregnancy include the length of the
embryo; referred to as the crown-rump length (CRL), mean gestational sac diameter (MSD),
embryo/fetus biparietal diameter (greater than 11 weeks), and more rarely, the yolk sac and/or
amnion sac diameters. The most accurate and reproducible biometric measurement is the CRL
and should be the preferred measurement when feasible.
Các số đo sinh học trong 3 tháng đầu của thai kì bao gồm chiều dài phôi thai; hay chiều dài đầu
mông (CRL), đường kính túi thai trung bình (MSD), đường kính lưỡng đỉnh (lớn hơn 11 tuần),
và hiếm hơn là đo đường kính túi ối và/hay túi noãn hoàng. Trong đó CRL là chỉ số sinh học
chính xác nhất và nên được dùng khi nhìn thấy thôi phai.


Crown-Rump Length
The CRL corresponds to the length of the embryo in millimeters. Although, the name implies a
measurement from the crown to the rump of the embryo, the actual measurement corresponds to
the longest “straight line” distance from the top of the head to the rump of the embryo/fetus
(Figure 4.24), despite the noted body curvature. The CRL measurements are more accurate in
the earlier parts of the first trimester. When measuring the CRL, the operator should use the
mean of three discrete measurements, obtained in a mid-sagittal plane. 
CRL là chiều dài phôi thai tính theo milimet. Về mặt ngữ nghĩa là chiều dài từ đầu đến mông của
phôi, chúng ta sẽ đo đường thẳng dài nhất từ đỉnh đầu đến mông của phôi/thai (
Hình4.24), thay
vì đo theo đường cong của cơ thể thai. Đo CRL chính xác hơn ở thời điểm sớm của 3 tháng đầu.
Khi đánh giá CRL, nên thực hiện 3 lần đo khác nhau, trên mặt cắt dọc giữa.


It is recommended to follow the following parameters when dating a first trimester pregnancy (< 14 weeks) by CRL:
- For pregnancies at less than 9 weeks’ gestation, a discrepancy of more than 5 days from
LMP is an appropriate reason for changing the Expected Date of Delivery (EDD).
- For pregnancies between 9 and 13 6/7 weeks’ gestation, a discrepancy of more than 7
days should result in a change in the EDD.
Những tham số sau được khuyến cáo theo dõi khi tính tuổi thai trong 3 tháng đầu (<14 tuần) bằng CRL:
- Đối với thai < 9 tuần, LMP có sai lệch > 5 ngày là lý do thích đáng giải thích cho sự thay
đổi của ngày dự sanh (Expected Date of Delivery (EDD)).
- Đối với thai từ 9 đến 13 6/7 tuần, LMP sai lệch > 7 ngày dẫn đến thay đổi ngày dự sanh.


The CRL increases rapidly at a rate of approximately 1.1 mm per day. An approximate formula
to calculate gestational age from the CRL is Gestational Age in days = CRL (mm) + 42, however
this may not be needed since most ultrasound equipment have integrated software which allows
gestational age determination upon measurement of CRL or other biometric data. Table 4.6
shows gestational age and corresponding CRL in mm.
CRL tăng nhanh khoảng 1,1 mm mỗi ngày. Một công thức gần đúng theo CRL là tuổi thai theo
ngày = CRL (mm) + 42, tuy nhiên công thức này có thể không cần thiết bởi vì hầu hết máy siêu
âm có phần mềm tích phân cho phép xác định tuổi thai dựa trên CRL hay các dữ liệu số đo sinh
học khác.
Bảng4.6 cho thấy tuổi thai và sự tương ứng với CRL theo mm.



Mean Sac Diameter
Đường kính túi thai trung bình
Since the gestational sac is the first evidence of pregnancy on ultrasound and is first visualized
within the endometrial cavity at 4 to 4.5 weeks after the LMP, its detection and measurement can
be used to confirm and date a pregnancy. Its size at first appearance is around 2 to 4 mm in
diameter, and is localized in the decidua, paracentrically with echogenic borders. The early
demonstration of a gestational sac is best performed by transvaginal ultrasound. The biometric
measurement for pregnancy dating uses the mean sac diameter (MSD) calculated as the
arithmetic mean diameters derived from its greatest sagittal, transverse and coronal planes
(Figure 4.25 A and B). 
Vì hình ảnh túi thai là bằng chứng đầu tiên của thai kì trên siêu âm và và có thể thấy được trong
lớp nội mạc lúc 4 đến 4.5 tuần theo kinh cuối, nên viêch xác định và tính toán tuổi thai có thể
dựa vào sự phát hiện và đo kích thước túi thai. Túi thai lần đầu xuất hiện có kích thước đường
kính khoảng 2 – 4 mm, nằm trong lớp màng rụng, gần đường giữa với bờ dày sáng. Việc xác
định túi thai sớm tốt nhất nên thực hiện bằng siêu âm ngã âm đạo. Đường kính túi thai trung bình
(MSD) tính bằng trung bình 3 đường kính lớn nhất của các mặt phẳng dọc, ngang và trán
(
Hình4.25 A và B)

Gestational sac confirms the presence of an intrauterine pregnancy but
not the viability of the embryo. Therefore an empty gestational sac or with a yolk sac are signs
that the pregnancy is 5-6 weeks gestation, a follow in 7-14 days will demonstrate the presence of
an embryo and confirms viability. It is not recommended to use the MSD for estimating the due
date, as the CRL is a more precise dating method and should be the preferred choice.
Hình ảnh túi thai thể hiện thai nằm trong tử cung nhưng chưa phải là dấu
hiệu của thai sống. Hơn nữa, một túi thai trống hay có túi noãn hoàng là dấu hiệu của thai 5-6
tuần, nếu theo dõi thêm 7 – 14 ngày sẽ thấy phôi thai và xác định được khả năng sống của thai.
MSD không được khuyến cáo dùng để đánh giá tuổi thai vì CRL là phương pháp tính tuổi thai
chính xác hơn và nên được ưu tiên lựa chọn


TABLE 4.6 Gestational age and corresponding Crown Rump Length (mm)
Gestational Age (GA Crown Rump Length (mm)
6 + 0 weeks 5
7 + 0 weeks 10
8 + 0 weeks 15
9 + 0 weeks 23
10 + 0 weeks 32
11 + 0 weeks 42



Figure 4.24: Crown-Rump Length (CRL) measurement of a fetus at 12 weeks gestation.
Note that the CRL measurement corresponds to the longest straight line from the top of
the head to the rump region.
Hình 4.24: Chiều dài đầu mông (CRL) của thai 12 tuần. Chú ý đo CRL tương ứng với
đường thẳng dài nhất từ đỉnh đầu đền vùng mông thai nhi.



Amniotic Sac / Yolk Sac
Túi ối/ Túi noãn hoàng
The amniotic sac develops around the embryo as a thin membrane that surrounds the embryo and
is less echogenic than the yolk sac (Figure 4.10). Whereas the gestational sac shows variations
in size and shape, the growth of the amniotic sac is closely related to the growing embryo.
Túi ối phát triển quanh phôi thai giống như một màng mỏng bao quanh phôi thai và phản âm
kém hơn túi noãn hoàng (
Hình4.10). Trong khi túi thai thay đổi về kích thước và hình dáng, sự
phát triển của túi ối liên quan mật thiết với sự phát triển của phôi.

Once an embryo with cardiac activity is seen on ultrasound, the MSD, the size of the amniotic
cavity or yolk sac are not used for dating, but for documentation of normal development.
Observation of abnormal measurements of these structures in association with a normal
developing embryo are often not enough to diagnose a failed pregnancy, but close follow up is
prudent.
Khi nhìn thấy phôi thai có hoạt động tim thai trên siêu âm, thì đường kính túi thai trung bình,
kích thước túi ối hay túi noãn hoàng không được sử dụng để tính tuổi thai, nhưng có thể dùng để
đánh giá sự phát triển bình thường của thai. Nếu các chỉ số này bất thường nhưng phôi thai phát
triển bình thường thì không đủ để chẩn đoán thai lưu, nhưng cần phải theo dõi cẩn thận.


NUCHAL TRANSLUCENCY
ĐỘ MỜ DA GÁY
Nuchal translucency (NT) is a measurement of a collection of fluid under the skin behind the
fetal neck in the first-trimester of pregnancy. NT is measured between 11weeks and 13 weeks
and 6 days or a CRL of 45 – 84 mm. NT provides a risk assessment for chromosomal
abnormalities and can be a marker of other fetal abnormalities. For efficiency in screening, NT is
best combined with maternal age and maternal blood biochemical markers such as hCG and
pregnancy-associated plasma protein (PAPP-A). 
Độ mờ da gáy (NT) là số đo khoảng dịch dưới da ở phía sau vùng cổ thai nhi trong 3 tháng đầu.
NT được đo khoảng giữa 11 tuần và 13 tuần 6 ngày hoặc CRL từ 45 – 84 mm. NT là yếu tố để
đánh giá nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể và có thể là một dấu chỉ (marker) của các bất thường
thai khác. Để có hiệu quả sàng lọc, giá trị NT nên kết hợp với tuổi mẹ và sinh hoá máu mẹ như
hCG và Protein A huyết thanh thai kỳ (PAPP-A).

In order to incorporate NT in clinical practice,
physicians and sonographers should get certified in NT measurement and an ongoing quality
assurance program on NT measurement should be established. National and international NT
quality assurance programs exist such as the Fetal Medicine Foundation
(www.fetalmedicine.com) and the Nuchal Translucency Quality Review (www.ntqr.org). 
Để thống nhất về giá trị NT trong thực hành
lâm sàng, các bác sĩ lâm sàng và bác sĩ siêu âm cần phải đạt chứng nhận thực hành về đo NT và
nên có một hệ thống nhất quán về chất lượng đo NT của bác sĩ siêu âm. Một số chương trình
đảm bảo sự thống nhất trong việc đo NT đã được sử dụng trong nước và quốc tế hiện nay như
The Fetal Medicine Foundation (
www.fetalmedicine.com) và The Nuchal Translucency Quality
Review (
www.ntqr.org). Bảng 4.7 cho thấy kĩ thuật đo NT. Hình 4.26 và 4.27 cho thấy 2 thai có
số đo NT lần lượt là bình thường và dày.




Figure 4.25 A & B: Mean sac diameter (MSD) of a gestational sac at 5 weeks calculated as the
arithmetic mean diameters derived from its greatest sagittal (A1), transverse (A2) and coronal
planes (B1).
Hình 4.25 A & B: Đường kính túi thai trung bình (MSD) lúc 5 tuần được tính bằng trung bình đường
kính lớn nhất của mặt phẳng ngang (A1), ngang (A2), và trán (B1).


Table 4.7 shows the technical aspects of NT measurement. Figures 4.26 and 4.27 show 2 fetuses with
a normal and large NT measurement respectively.
TABLE 4.7
Technical Aspects of Nuchal Translucency Measurement (NT) –
From NTQR.org with Permission
1. Margins of NT edges clear
2. Fetus in the mid-sagittal plane
3. Fetus occupies the majority of the ultrasound image
4. Fetal head in the neutral position
5. Fetus observed away from the amnion
6. (+) Calipers used
7. The calipers horizontal crossbars are placed on the NT line
8. The calipers are placed perpendicular to the long axis of the fetus
9. The measurement is at the widest NT space

BẢNG4.7 Kĩ thuật đo NT – từ NTQR.org
1. Hai bờ của NT phải rõ ràng
2. Thai nằm trên mặt phẳng dọc giữa
3. Thai phải chiếm gần hết hình ảnh siêu âm
4. Đầu thai ở tư thế trung lập
5. Thai nằm tách ra khỏi màng ối
6. Sử dụng thước đo (+)
7. Thanh ngang của thước đo nằm trên đường bờ của NT
8. Thuốc đo đặt vuông góc với trục dọc của thai
9. Đo ở khoảng NT rộng nhất.




Figure 4.26: Mid-sagittal plane of a fetus in the first trimester of pregnancy with a
normal nuchal translucency measurement (NT).
Hình 4.26: Mặt cắt dọc giữa của thai 3 tháng đầu với độ mờ da gáy bình thường.

ELEMENTS OF PREGNANCY FAILURE
NHỮNG YẾU TỐ CỦA THAI LƯU
The examiner dealing with first trimester ultrasound is often confronted with the situation of a
suspected or a confirmed early pregnancy failure. It should be known that during this stage, at
least 10-15% of all pregnancies end as pregnancy failure and the diagnosis can often be made by
ultrasound, typically before symptoms develop by patients. Depending on the gestational age of
pregnancy, several scenarios can be expected:
Các bác sĩ siêu âm thai trong 3 tháng đầu thường gặp phải tình huống nghi ngờ hoặc xác định
thai lưu sớm. Trong giai đoạn này, có ít nhất 10 – 15% thai bị chết lưu và siêu âm có thể chẩn
đoán trước khi bệnh nhân có triệu chứng. Tuỳ thuộc vào tuổi thai, một vài tình huống sau có thể
xảy ra:

- Pregnancy confirmed by a positive pregnancy test but no gestational sac is noted in the
uterine cavity by ultrasound, suggesting the differential diagnosis of an incomplete
abortion, an ectopic pregnancy or an early intrauterine pregnancy that is not yet
recognizable by transvaginal ultrasound.
Thai được xác định bằng xét nghiệm thai dương tính nhưng siêu âm không thấy túi thai
trong tử cung, gợi ý những chẩn đoán phân biệt: sẩy thai không hoàn toàn, thai ngoài tử
cung hay thai trong tử cung giai đoạn sớm khi vẫn chưa thể thấy thai qua siêu âm ngã âm
đạo.

- Gestational sac noted by transvaginal ultrasound, but no signs of embryo or yolk sac
within it.
Túi thai thấy được qua siêu âm ngã âm đạo, nhưng không thấy phôi thai hay túi noãn
hoàng
- An embryo visualized on transvaginal ultrasound, but no cardiac activity detected.
Phôi thai nhìn thấy qua siêu âm ngã âm đạo, nhưng không thấy hoạt động tim thai
- An embryo with cardiac activity detected, but various measurements are out of range
(heart rate, size of yolk sac, embryo, amniotic sac etc.).
Phôi thai có hoạt động tim thai, nhưng những số đo khác không nằm trong giới hạn bình
thường (nhịp tim thai, kích thước túi noãn hoàng, phôi, túi ối…..).

- Presence of subchorionic bleeding, with or without clinical signs of bleeding.
Có xuất huyết dưới màng đệm, có hoặc không có kèm dấu hiệu xuất huyết trên lâm sàng.
- Abnormal anatomic appearance of the embryo.
Phôi thai có cấu trúc giải phẫu bất thường.



Figure 4.27: Mid-sagittal plane of a fetus in the first trimester of pregnancy
with an enlarged nuchal translucency measurement (NT).
Hình 4.27: Mặt cắt dọc giữa của thai 3 tháng đầu với độ mờ da gáy dày.

In many conditions if the health of the patient is not in danger (bleeding, pain etc.) and an ectopic
pregnancy is not in the differential diagnosis, a follow-up ultrasound examination is helpful to
assess for change in the ultrasound findings and in confirming the suspected diagnosis. Given
that the developing gestational sac undergoes notable significant change on a weekly basis in the
first trimester, follow-up ultrasound that fails to show a noticeable change after 1 week or more,
casts a poor prognostic sign and can confirm the diagnosis of a suspected failed pregnancy. 
Trong nhiều trường hợp, nếu tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân không có gì nguy hiểm (xuất
huyết, đau…) và không nghĩ đến thai ngoài tử cung, thì có thể theo dõi sự thay đổi của các dấu
hiệu trên siêu âm và cũng như xác định những chẩn đoán còn nghi ngờ. Trong 3 tháng đầu tiên,
sẽ có những thay đổi rõ rệt bên trong túi thai khi thai phát triển theo mỗi tuần, nên nếu sau hơn 1
mà không thấy bất cứ thay đổi nào của túi thai thì đó là một dấu hiệu tiên lượng xấu và có thể
xác định chẩn đoán thai lưu đã nghi ngờ trước đó.


The
presence of subchorionic bleeding is generally associated with a good outcome in the absence of
other markers of pregnancy failure (Figure 4.28 A & B). It is the opinion of the authors that in
the absence of specific findings of failed pregnancy, conservative management with follow-up
ultrasound examination is helpful in the evaluation of a suspected failed pregnancy in the first
trimester. Table 4.8 lists specific findings of failed pregnancy in the first trimester which when
noted can establish the diagnosis without a need for a follow-up examination.
Sự hiện diện của xuất huyết dưới màng đệm
thường đi kèm với kết cục tốt khi không có dấu hiệu khác của thai lưu
(Hình 4.28 A & B).
Nhiều tác giả cho rằng, trong 3 tháng đầu khi không có những dấu hiệu đặc hiệu của thai lưu, cần
phải theo dõi cẩn thận bằng siêu âm để đánh giá những trường hợp thai nghi ngờ chết lưu.
Bảng
4.8
liệt kê những dấu hiệu đặc hiệu của thai lưu, có thể chẩn đoán xác định mà không cần theo
dõi bằng siêu âm.




Figure 4.28 A & B: Small (A - asterisk) and large (B – asterisk and broken arrows) subchorionic bleeding
in 2 pregnancies. Despite its size, the subchorionic bleeding in B was associated with a good pregnancy
outcome.
Hình 4.28 A & B: Xuất huyết dưới màng đệm ít (A – dấu sao) và nhiều (B – dấu sao và mũi tên đứt
quãng) trong 2 thai. Không kể đến kích thước, xuất huyết dưới màng đệm ở thai B có kết cục tốt.

TABLE 4.8
Diagnostic Signs of Early Pregnancy Failure in the First Trimester
R
- Crown-Rump length of equal to or greater than 7 mm without cardiac activity
- MSD of equal to or greater than 25 mm without an embryo
- Absence of embryo with heartbeat at 2 or more weeks after an ultrasound that
showed a gestational sac without a yolk sac
- Absence of embryo with heartbeat at 11 days or more after an ultrasound that
showed a gestational sac with a yolk sac
BẢNG 4.8 Những dấu hiệu chẩn đoán thai lưu giai đoạn sớm trong 3 tháng
đầu.
R
- Phôi thai CRL ≥ 7 mm mà không có hoạt động tim thai.
- Túi thai MSD ≥ 25 mm mà không có phôi.
- Không thấy phôi và tim thai sau ≥ 2 tuần sau khi siêu âm đã thấy túi thai mà
không có yolk sac.
- Phôi thai không có tim thai lúc ≥ 11 ngày sau khi siêu âm thấy túi thai có yolk sac.

CONCLUSIONS
The ultrasound examination in the first trimester is an important step in the evaluation of the
pregnancy as it allows for confirmation of an intrauterine gestation and for accurate pregnancy
dating. It is of note that significant change occurs in the first trimester in the normal pregnancy
and this change can be detected by transvaginal ultrasound examination. Sequential steps of the
normal development of the pregnancy should be known in order to better compare the actual
ultrasound findings with the corresponding gestational age. This is the basic knowledge that is
needed in order to differentiate a normal from an abnormal gestation.
Siêu âm trong 3 tháng đầu là một bước quan trọng trong việc đánh giá thai kì, cho phép xác định
thai trong tử cung và tính được tuổi thai chính xác. Với một thai kỳ bình thường, có những sự
thay đổi đáng kể diễn ra trong 3 tháng đầu và điều này có thể thấy trên siêu âm ngã âm đạo. Cần
hiểu rõ các giai đoạn phát triển khác nhau của một thai kỳ bình thường để có sự so sánh giữa
những dấu hiệu trên siêu âm và tuổi thai tương ứng. Đây là những kiến thức cơ bản cần thiết để
có thể phân biệt giữa thai kì bình thường và thai kì bất thường.


References:
1) Reddy UM, Abuhamad AZ, Levine D, Saade GR. Fetal Imaging Executive Summary of a
Joint Eunice Kennedy Shriver National Institute of Child Health and Human
Development, Society for Maternal-Fetal Medicine, American Institute of Ultrasound in
Medicine, American College of Obstetricians and Gynecologists, American College of
Radiology, Society for Pediatric Radiology, and Society of Radiologists in Ultrasound
Fetal Imaging Workshop. J Ultrasound Med 2014; 33:745–757.
2) Doubilet PM, Benson CB, Bourne T, Blaivas M; Barnhart KT, Benacerraf BR, et al.
Diagnostic criteria for nonviable pregnancy early in the first trimester. N Engl J Med.
2013 Oct 10; 369(15): 1443-51.
3) Abdallah Y, Daemen A, Kirk E, Pexsters A, Naji O, Stalder C, Gould D, Ahmed S, Guha
S, Syed S, Bottomley C, Timmerman, Bourne T. Limitations of current definitions of
miscarriage using mean gestational sac diameter and crown–rump length measurements:
a multicenter observational study. Ultrasound Obstet Gynecol 2011; 38: 497-502.

Nhận xét